Khái Hưng
Khái Hưng, tên thật là Trần Khánh Giư, sinh năm 1896 tại làng Cổ Am,
Vĩnh Bảo, Hải Dương. Con trưởng của tuần phủ Trần Mỹ, cử nhân hán học,
tác giả tập thơ “Cổ Phần Lái Khúc”. Lúc nhỏ, Khái Hưng theo học chữ Hán,
sau theo học trường trung học Albert Sarraut, đỗ tú tài, về Ninh Giang
hoạt động thương mại, được thời gian, không thành công, trở lại Hà Nội
dạy học ở trường Thăng Long của cụ Huỳnh Thúc Kháng. Nơi đây, ông gặp
Nhất Linh.
Là con rể của Tổng đốc Bắc Ninh Lê Văn Định. Tuy nhiên, Khái Hưng không
thích làm quan, thích cuộc sống tự lập v́ vậy vừa đi dạy vừa viết báo để
tạo dựng cuộc sống. Vừa dạy học vừa viết xă luận và chuyện vui trong
tuần cho tờ báo thương mại của Chu Mậu. Chu Mậu là nhà buôn có thế lực,
dùng tờ báo để làm phương tiện quảng cáo cho công việc kinh doanh về may
mặc v́ vậy Khái Hưng không mấy hài ḷng cho “mănh đất dụng vơ” trong
nghiệp báo.
Khái Hưng có người em cùng cha khác mẹ, nhà văn Trần Tiêu (1900-1954)
tác giả Con Trâu, Chồng Con, Năm Hạn, Sau Lũy Tre vào thập niên 1940...
Trần Tiêu theo Cộng Sản, làm Ủy viên Hội đồng Nhân dân xă Cổ Am, không
có tác phẩm nào sau nầy được h́nh thành và trở thành bóng mờ khi Khái
Hưng bị thủ tiêu.
Năm 1930, sau bốn năm du học ở Pháp, đỗ cử nhân khoa học, Nhất Linh về
nước, không chọn con đường hoạn lộ, làm Hiệu trưởng ở trường Thăng Long
và tiếp tục sự nghiệp làm báo. Nhân bài khảo luận kư tên Bán Than đăng
trên báo Văn Học của anh em Dương Bá Trạc và Dương Tự Quán, Nhất Linh
bắt gặp được ngọn bút độc đáo, có khả năng và nhận thức sâu sắc . H́nh
ảnh vị anh hùng dân tộc Trần Khánh Dư đời Trần làm Nhất Linh liên tưởng
đến nhà giáo Trấn Khánh Giư, đồng nghiệp, đang cộng tác cùng chung mái
trường. Từ đó, Khái Hưng và Nhất Linh trở thành “đôi bạn” trong văn học,
nghiệp dĩ và cuộc sống. Vợ chồng Khái Hưng không có con nên vợ chồng
Nhất Linh "gởi gấm" đứa con thân yêu là Nguyễn Tường Triệu cho gia đ́nh
bạn làm "con nuôi" đổi họ là Trần Khánh Triệu để lo phần hương khói sau
nầy. Trong bài viết "Những Ngày Cuối Cùng Của Ba Tôi", Trần Khánh Triệu
gọi ông bà Khái Hưng bằng ba mẹ.
Theo Nguyễn Vỹ trong “Văn Thi Sĩ Tiền Chiến”, Khái Hưng “Người gầy ốm,
đôi má hơi cóp và nước da hơi tái, nhưng nụ cười rất tươi. Nụ cười ngụ
nét hóm hỉnh, nhưng hiền lành khả ái chứ không hời hợt đăi bôi như Thế
Lữ và không trào lộng như Nguyễn Tường Tam”. Về bút hiệu, Khái Hưng cho
biết: “Tên thật của tôi là Trần Khánh Giư, hai chữ Khánh Giư, sắp theo
lối anagrammme thành ra Khái Hưng, chứ không có ǵ lạ”. Về tính t́nh
“Khái Hưng cũng không tự kiêu tự đắc, tính điềm và tao nhă, câu chuyện
có vẻ thành thật và lịch sự... Ít nói, tính điềm đạm, nhưng thỉnh thoảng
khôi hài đôi chút, và không làm mích ḷng ai”. Về sáng tác, Khái Hưng
“thẳng thắn nh́n nhận rằng anh viết tiểu thuyết theo nhu cầu và điều
kiện văn nghệ của một thời đại mà thôi”; V́ vậy, nhà giáo, nhà văn đi
vào con đường “tiểu thuyết luận đề” nhằm khai phá ḍng sinh khí mới
trong văn học qua lăng kính xă hội, nêu ra thực trạng trong cuộc sống bi
đát của xă hội đầy dẫy với nhân t́nh thế thái, với cảnh đời ô trọc,
phong tục, tập quán cổ hủ trong thời điểm phong kiến và thực dân xâm
phạm nhân phẩm, phẩm cách, giá trị cao quư đích thực của nhiều tầng lớp
nổi trôi, trầm luân trong cuộc sống.
Vũ Ngọc Phan trong “Nhà Văn Hiện Đại” đă nhận định: “Nhà văn mà được nam
nữ thanh niên yêu chuộng, được họ coi là người hiểu biết tâm hồn họ hơn
cả, có lẽ chỉ có Khái Hưng... Khái Hưng là văn sĩ của thanh niên Việt
Nam cũng như Alfred de Musset là thi sĩ của thanh niên Pháp thuở xưa...
Khái Hưng, như người ta đă thấy, là một nhà tiểu thuyết có biệt tài...
ông lại để tâm đến những việc cải cách hủ tục trong gia đ́nh Việt Nam,
nên những tiểu thuyết phong tục của ông đều là những tiểu thuyết có giá
trị”.
Năm 1927, giáo sư Phạm Hữu Ninh ra đời tờ Phong Hóa, được 13 số th́ đ́nh
bản v́ thiếu người cộng tác. Sau thời gian t́m được những cây bút hợp
tác, Nhất Linh thương thảo với Phạm Hữu Ninh để tục bản tờ Phong Hóa. Số
14 ra ngày 22-9-1932, chú trọng về văn học và trào phúng. Ṭa soạn và
trị sự đặt tại trường Thăng Long. Với ng̣i bút khôi hài, châm biếm tập
tục hủ lậu, thái độ kiêu căng tự đắc, nhân danh nầy nghĩa nọ để lộng giả
thành chân... được đề cập qua ḍng phiếm luận, tranh hí họa đă tạo được
tiếng vang trong báo giới. H́nh ảnh Xă Xệ, Lư Toét, Bang Bạnh, Đ́nh
Dù... nhân vật điển h́nh của thời đại đă lôi cuốn độc giả đón nhận tờ
Phong Hóa. Hà Nội được cười nhộn với bao tiết mục khôi hài, chế giễu,
châm chọc... nhiều nhân vật có “máu mặt... mẹt” lần lược được đề cập
trên tờ Phong Hóa.
Giới cầm bút có Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh
Giư), Tứ Ly, Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Tú Mỡ (Hồ Trong Hiếu), Thạch
Lam, Việt Sinh (Nguyễn Tường Lân), Lê Ta, Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ)... Giới
cầm cọ có Cát Tường, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tường Tam... mở
ra mặt trận xung kích tạo cho Phong Hóa có sắc thái mới lạ, độc đáo.
(Phát hành được 110 số, tờ Phong Hóa bị đóng cửa vào năm 1936 v́ bài
phóng sự của Hoàng Đạo mỉa mai Hoàng Trọng Phu liên quan đến tay sai của
Pháp).
Từ những cây bút trong “Nhóm Phong Hóa” bảy chàng ngự lâm pháo thủ thành
lập ra Tự Lực Văn Đoàn vào năm 1933. Với chủ trương “Trước vui thích,
sau ích lợi”. Mười điều tôn chỉ của Tự Lực Văn Đoàn được đề cập trên
Phong Hóa, số 87, ra ngày 2-3-1934. Ba mục đích lớn về phương diện chính
trị, xă hội và văn chương. Đả phá quan liêu, hống hách, cướng hào ác bá,
âm mưu chia để trị, hủ tục, tệ nạn xă hội, trừ khử lối văn chịu ảnh
hưởng chữ Nho xâm nhập quá nhiều... Xây dựng canh tân xứ sở, giá trị
t́nh yêu quê hương dân tộc, tinh thần vị tha, tự lập, phục vụ đời sống
người dân lao động, giá trị nhân phẩm con người, nhất là nữ giới với
quyền làm người trong xă hội, văn chương trong sáng, giản dị, dễ hiểu,
quan tâm đến đời sống đích thực của con người... Khái Hưng là người lớn
tuổi nhất trong Tự Lực Văn Đoàn, hơn con chim đầu đàn Nhất Linh đúng
mười tuổi.
Hồn Bướm Mơ Tiên xuất bản vào tháng 5-1933, tác phẩm đầu tay của Khái
Hưng và cũng là tác phẩm đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn được gây tiếng
vang khi vừa xuất hiện. T́nh yêu giữa Ngọc và Lan được thể hiện trong
tâm hồn lăng mạn, thanh cao, thoát tục qua mối t́nh chàng sinh viên si
mê, đắm đuối “chú tiểu Lan” nương thân nơi cửa Phật. Khái Hưng đă gửi
gắm vào đó tính nhân bản của đôi trai, gái t́m một con đường: “Đại gia
đ́nh của tôi nay là nhân loại, là vũ trụ, mà tiểu gia đ́nh của tôi là...
hai tâm hồn của đôi ta ẩn núp dưới bóng từ bi Phật tổ”. Đam mê, yếu đuối
trong t́nh yêu khi gặp nghịch cảnh, éo le, bi đát, rồi than văn, khóc
thương, hủy hoại thân xác như Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách thuở đó như
sách gối đầu giường cho thanh niên nam nữ. Hồn Bướm Mơ Tiên xuất hiện
với mối t́nh đầy lăng mạn, thơ mộng, éo le nhưng được thăng hoa, nâng
cao tâm hồn để t́m lối thoát cao đẹp, có ư nghĩa trong cuộc sống.
Tiếp đến, Nửa Chừng Xuân xuất hiện với h́nh ảnh Mai - người phụ nữ đẹp
cả tâm hồn và thể xác - trong mối t́nh với Lộc đầy bi thương, sóng gió
trong xă hội phong kiến, lạc hậu. Người phụ nữ yếu đuối đă chịu đựng, hy
sinh, chịu bao bao đắng cay tủi nhục đă chụp lên thân phận làm vợ, làm
dâu... nhưng bằng nghị lực, bằng tấm ḷng yêu thương chân thật với gia
đ́nh, người yêu, tuy dang dỡ nhưng thể hiện được mối t́nh cao thượng, lư
tưởng trong xă hội thời ấy. Hai tác phẩm nầy đều xuất hiện trên tờ Phong
Hóa.
Khi tác phẩm được xuất hiện đều đặn, Khái Hưng thôi dạy, tiếp tục cộng
tác trên tờ Phong Hóa & Ngày Nay (ra ngày 30-1-1935) cùng với anh em
trong Tự Lực Văn Đoàn. Ngày Nay ra mỗi tháng 3 kỳ, nội dung & h́nh thức
như Phong Hóa nhưng mục trông t́m đi thẳng vào vấn đề sinh hoạt “dân ta”
trong cuộc sống giữa thực dân & phong kiến nên vẫn là cái gai cho chế độ
thực dân. Cuộc sống nhà báo lúc đó rất khó khăn nhưng v́ đam mê, yêu
nghề nên đành “lấy nghiệp vào thân”. Trương Bảo Sơn kể về trường hợp
Nhất Linh: “Trong khi dạy học, anh để dành tiền làm báo... anh em không
ai ngạc nhiên thấy anh bỏ cái nghề hàng tháng (nghề dạy học) đương cung
cấp cho anh ba trăm đồng bạc lương để làm cái nghề chỉ đem lại cho anh
có ba chục đồng bạc, nghĩa là 1/10 số lương cũ”. cũng như nhất Linh,
Khái Hưng cũng chọn con đường “nghiệp báo” theo lư tưởng của ông.
Năm 1940, Khái Hưng cùng Nhất Linh nhập cuộc trong Đại Việt Dân Chính
khi Nhất Linh đứng ra lập nên hệ phái nầy trong Đại Việt Quốc Dân Đảng.
Thời kỳ nầy, giữa Khái Hưng & Nhất Linh tuy hai mà một, tâm đắc, chí
hướng đă gặp gỡ nhau nên luôn luôn “sát cánh” trên mọi việc.
Khái Hưng bị Nhật bắt giam ở nhà giam Vụ Bản, Ḥa B́nh một thời gian.
Được thả, Khái Hưng tiếp tục con đường cầm bút. Đinh Hùng đă ghi lại
h́nh ảnh đau buồn đó trong bài "Những Kỷ Niệm Khó Quên Với Các Bạn Trong
Tự Lực Văn Đoàn: "Khái Hưng bị bắt đưa đi Vụ Bản, Thế Lữ sợ liên quan
cũng lẩn trốn mất dạng. Huyền Kiêu về ở quê nhà tại Vân Đ́nh. Bạn bè
thân, sơ không c̣n mấy ai lai văng tới căn nhà "cửa trúc cài phên gió"
nữa. Trong nhà quạnh vắng, chủ nhân cũng bắt đầu ngọa bệnh. Chỉ có
Nguyễn Tường Bách là em ruột Thạch Lam và tôi vốn ở gần thỉnh thoảng c̣n
lui tới".
Báo Ngày Nay lại tiếp tục tái xuất hiện ngày 5-5-1945, đường Quan Thánh,
Hà Nội. Được xem như cơ quan ngôn luận của VN Quốc Dân Đảng. Nội dung
chú trọng về thời cuộc, khảo cứu, khoa học. Khái Hưng, cây bút trụ cột,
chuyên viết đề tài có tính cách xă hội và thời sự nóng bỏng. Tác phẩm
Xiềng Xích lần lượt xuất hiện trên trang báo, lên án sự bạo hành, tham
lam, nhũng loạn của thực dân Pháp & bè lũ tay sai, đồng thời đưa ra h́nh
ảnh những nhà hoạt động chính trị, cách mạng xả thân cho đất nước đă bị
tù tội, bị đánh đập tra tấn, bị hành hạ khổ sở trong gông cùm thực dân.
Tập truyện cuối cùng Bóng Giai Nhân và vở kịch Khúc Tiêu Ai Oán được
đăng tải trên tuần báo Chính Nghĩa trong hai năm 1945-. Ng̣i bút sống
động, chân thực, phơi bầy thực trạng phủ phàng, tang thương trong lao
tù, cuộc sống... được Khái Hưng mô tả đă làm xúc động ḷng người.
Thế rồi, biến cố 19-8-45, Việt Minh cướp chính quyền, đàn áp đảng phái
đối lập, Ngày Nay bị đóng cửa. Tuy không ưa Cộng Sản nhưng Khái Hưng
mang tâm hồn nhân bản nên vẫn nghĩ rằng Cộng Sản không lẽ nhẫn tâm, tàn
ác tiêu diệt thành phần chân chính đối lập v́ vậy Khái Hưng không nghe
lời ngăn cản của bằng hữu, rời Hà Nội, về lại quê vợ ở Nam Định vào
tháng 12-1946. Hai tuần lễ sau, Khái Hưng bị Cộng Sản thủ tiêu một cách
dă man
(1)!. Vợ ông sống lầm lũi trong nỗi khổ đau, đau tim, qua đời ở quê
nhà vào năm 1954. Không có con cái, người con nuôi Trần Khánh Triệu lo
giỗ tang cho song thân.
Nh́n Về
Tác Phẩm
Từ tác phẩm Hồn Bướm Mơ Tiên đến Khúc Tiêu Ai Oán, Khái Hưng đóng góp
trong kho tàng Văn học Việt Nam khoảng hai mươi lăm tác phẩm (truyện
dài, truyện ngắn, kịch...) qua 15 năm sáng tác. Về truyện ngắn, Khái
Hưng sáng tác rất phong phú, xuất hiện thương xuyên trên báo Phong Hóa
và Ngày Nay; Đời Nay tuyển chọn một số tuyện ngắn để in thành tác phẩm,
chưa hẳn đặc sắc và tiêu biểu trong hàng trăm truyện ngắn Khái Hưng sáng
tác.
Theo thời gian xuất bản gồm: Hồn Bướm Mơ Tiên (1933), Nửa Chừng Xuân
(1934), Tiêu Sơn Tráng Sĩ (1934), Trống Mái (1935), Tiếng Suối Reo
(1935), Gia Đ́nh (1935), Dọc Đường Gió Bụi (1936), Thoát Ly (1937), Tục
Lụy (1937), Thừa Tự (1938), Hạnh (1938), Đợi Chờ (1938), Đẹp (1939), Cái
Ấm Đất (1940), Những Ngày Vui (1941), Đội Mũ Lệch (1941), Đồng Bệnh
(1942), Băn Khoăn - Thanh Đức (1943)... Bóng Giai Nhân (1946), Khúc Tiêu
Ai Oán (1946). (Theo Vũ Ngọc Phan: Thừa Tự (1940), Hạnh (1940), Đẹp
(1941) ...)
Viết chung với Nhất Linh: Anh Phải Sống (1934), Gánh Hàng Hoa (1934),
Đời Mưa Gió (1936).
Viết chung với Trần Tiêu: Dưới Ánh Trăng (1936).
Trong “Văn học Sử Giản Ước Tân Biên”, dẫn chứng một số tác phẩm tiêu
biểu của Khái Hưng qua tiểu thuyết về ái t́nh, gia đ́nh và đoản thiên
đoản kịch, Phạm Thế Ngũ kết luận: “Khái Hưng là một cây bút đi nhặt
nhạnh truyền người, một thứ gương pha lê hướng ra cuộc đời lắm vẻ và
dung nạp một cách trung thực và khoan ḥa những tâm tư và h́nh thái của
một xă hội chung quanh ông”.
Cùng quan điểm với tôn chỉ trong Tự Lực Văn Đoàn, Khái Hưng đă thể hiện
tiếng nói trong văn nghiệp của ông qua toàn bộ tác phẩm. Đúng ra, phải
phân tích toàn bộ tác phẩm của ông mới nói lên được hành tŕnh ông đi và
gửi gắm tâm hồn người cầm bút trong từng tác phẩm. Tuy nhiên, với Khái
Hưng chỉ nh́n vào vài tác phẩm tiêu biểu cũng thấy được cuộc hành tŕnh
đó. Tiểu thuyết của ông phần đông thuộc tiểu thuyết lư tưởng, tiểu
thuyết luận đề, tiểu thuyết phong tục... nhằm bày tỏ cái hay, cái đẹp,
nhân phẩm, giá trị của con người, sự rung cảm của con tim, t́nh người
trong cuộc sống. Đưa ra h́nh ảnh hủ lậu, quan niệm khắt khe, phong kiến,
bảo thủ của tầng lớp phong kiến... đă từng gieo rắc bao tai họa, bất
hạnh, khổ đau không những cho kẻ khác mà ngay cả người thân trong gia
đ́nh để soi nh́n thực trạng bi thương, phủ phàng của thời đại sinh sống.
Mối t́nh bi đát nhưng rất cao đẹp giữa Phạm Thái & Trương Quỳnh Như qua
tiểu thuyết lịch sử Tiêu Sơn Tráng Sĩ. Nếu g̣ bó trong hôn nhân, bị tan
vỡ giữa Lộc & Mai đưa đến t́nh yêu lư tưởng trong Nửa Chừng Xuân th́
trong Trống Mái quan niệm về t́nh yêu có vẻ phóng khoáng, thanh thoát
hơn. Hiền thích Vọi với thân h́nh lực lưởng, vẻ đẹp của chàng trai đánh
cá, có lúc yêu nhưng không muốn tiến đến hôn nhân v́ Hiền, cô gái thuộc
hạng phong lưu, có tư tưởng mới... Giữ trong tim h́nh ảnh đẹp, lấy nhau,
cách biệt về cuộc sống, không c̣n đẹp đôi.
Khái Hưng đưa ra h́nh ảnh chân thực về t́nh yêu, hạnh phúc đích thực
trong cuộc sống trong Gia Đ́nh. Phụng, Nga, Bảo là ba cô con gái ông bà
án Báo. Phụng & Nga lấy chồng tri huyện, kẻ tham lam, người nhu nhược,
ham chơi nên có tiếng nhưng không có ǵ hạnh phúc. Nga lấy Hạc, chàng
sinh viên, bỏ học, đi làm đồn điền, cả hai đều bắt tay tạo dựng cuộc
sống mới, công tác xă hội, giản dị, ḥa đồng, dung dị, t́m được niềm
vui, hạnh phúc bên những người thân quen.
Viết về h́nh ảnh trong sáng, Khái Hưng sử dụng ng̣i bút thật uyển
chuyển, nhẹ nhàng, bóng bẩy để tô điểm bóng dáng nhân vật hài ḥa trong
văn.
Bên cạnh đó, h́nh ảnh ông huyện bà phán nhố nhăng, kịch cởm, hách dịch,
đanh đá... với lời lẽ châm biếm, gay gắt cho phù hợp với nhân vật đang
bị nguyền rủa.
Bà Phán Trinh trong Thoát Ly, vợ lẻ, cầm quyền trong gia đ́nh. Người d́
ghẻ thâm độc, gian ác, nham hiểm, t́m mọi thủ đoạn để hảnh hạ Hồng, mồ
côi mẹ lúc 6 tuổi, sinh viên sư phạm Hà Nội. Trong t́nh yêu, Hồng gặp
bao cảnh ngang trái lại bị d́ ghẻ manh tâm pha hoại, hồng bất lực trước
cuộc sống và t́m cái chết để thoát ly cơi đời lầm than, bất hạnh.
Bà án Ba trong Thừa Tự cũng thuộc mẫu ngưởi đàn bà gian ngoa, bủn xỉn,
mê tín, hợm hĩnh. Gia đ́nh giàu có nhưng trở thành bi kịch bởi ḷng
tham, đố kỵ, giành giựt, tranh nhau chiếm đoạt đất đai để thủ lợi.
Bà Án trong Nửa Chừng Xuân thể hiện mẫu người có đầu óc phong kiến,
thiếu t́nh người, không có ḷng nhân ái, độ lượng. Cái lư của bà Án
trong quan niệm vị kỷ nên t́m cách bảo thủ làm hại cuộc t́nh của Mai và
Lộc.
Khái Hưng đă phác họa bức tranh sống và thực trong giai đoạn thực dân và
phong kiến nhằm phơi bầy cái xấu xa, lạc hậu, lên án đầu óc ích kỷ, vụ
lợi, cậy quyền cậy thế... đă hăm hại chà đạp t́nh yêu, nhân phẩm, cuộc
sống của tha nhân và ngay chính người thân thuộc. Ca ngợi tinh thần tự
chủ, tự lập, đề cao phẩm cách của người phụ nữ trong sinh hoạt gia đ́nh
và xă hội; tôn trọng đời sống riêng tư, t́nh cảm cá nhân, ḷng vị tha và
nhân ái.
Khái Hưng đă dấn thân trong văn giới với tấm ḷng của nhà giáo, với hoài
bảo của người cầm bút chân chính nhằm đem vẻ đẹp của Chân Thiện Mỹ để
trang trải, tô điểm cho cuộc sống có ư nghĩa đích thực của nó. Khái Hưng
sáng tác rất dồi dào, phong phú... với sự đam mê và giàu nghị lực. Vũ
Bằng đă kể về những khuôn mặt trong Tự Lực Văn Đoàn: ”... Có một lần
nh́n vào bản thảo của Khái Hưng, người ta thấy anh viết ở đầu trang một
chữ “Gia Đ́nh”, ở cuối trang một chữ “Người con gái đẹp” và ở giữa trang
một ḍng “Trời ơi, biết viết ǵ đây, hở trời?”. Khái Hưng đă từng đưa ra
vấn nạn, h́nh ảnh “người con gái đẹp” trong thảm cảnh “gia đ́nh”. Làm
sao dung ḥa, giải thoát cuộc sống, t́nh yêu... cho thích nghi, phải đạo,
có t́nh có lư. Sự thận trọng, cân nhắc, đắn đo, suy ngẫm đó cho thấy
tinh thần trách nhiệm và ư thức sáng tạo của người cầm bút.
Khái Hưng chọn nghề văn, nghề báo như là nguồn sống cao quư để dâng hiến
cho tha nhân với tâm tư, t́nh cảm, nhận thức của văn nhân để cùng nhau
trang trải nỗi niềm. Nhà giáo, nhà báo, nhà văn, nhà cách mạng chân
chính... luôn luôn mang tâm hồn nhân bản để xây dựng cái hay, cái đẹp,
nhân cách con người, giá trị đạo đức trong từng cá nhân, gia đ́nh và xă
hội. Khái Hưng vẫn c̣n khả năng cống hiến cho đời những đứa con tinh
thần đáng giá, nhưng tiếc thay! kẻ bạo tàn đă nhẫn tâm thủ tiêu cây bút
đầy ḷng nhân bản đang dấn thân cho nghiệp dĩ!.
Cuộc hành tŕnh của ông c̣n dang dỡ nhưng tên tuổi Khái Hưng đă có chỗ
đứng vững vàn trong lịch sử Văn học Việt Nam.
(1) Thời
gian như lắng đọng trong thời điểm giao ḥa giữa năm cũ và năm mới, khi
mọi người đoàn tụ trong mái ấm gia đ́nh để đón nhận giây phút thiêng
liêng đêm giao thừa của ngày Tết cổ truyền, nhà văn Khái Hưng đă vĩnh
viễn ra đi trong niềm bi thương, uất hận. Đêm cuối năm - 30 tháng Chạp
năm Bính Tuất (2/01/1947) - Khái Hưng bị điều ra khỏi trại giam Lạc Quần,
sau đó bị thủ tiêu nơi bến đ̣ Cựa Gà, làng Ngọc Cục, Xuân Trường, Nam
Định, xác d́m xuống ḍng sông Ninh Cơ. Hành động sát hại con người nho
nhă, chân chính, có tấm ḷng với tiền đồ dân tộc, nhà văn lớn đă có công
đóng góp cho nền Văn Học đất nước... là vết nhơ trong lịch sử dân
tộc.
Khái Hưng bị triệt hạ nhưng tên tuổi Khái Hưng vẫn sáng chói trong nền
Văn Học Việt Nam. Ngày nay h́nh ảnh, tác phẩm của Khái Hưng được sống
lại ngay trên đất nước bị chế độ độc tài thống trị sau gần 5 thập niên
bị d́m cho phôi phai theo thời gian. Cộng Sản thủ tiêu h́nh hài Khái
Hưng nhưng không thể nào tiêu hủy h́nh ảnh, ngôn ngữ, tác phẩm Khái Hưng
đă dâng hiến cho đời, cho ḍng sinh mệnh Văn học Việt Nam. Giá trị tư
tưởng vượt khỏi gông cùm, xiềng xích. Vào giữa thập niên 90, Nhà Xuất
Bản Khoa Học Xă Hội ở Hà Nội cho ấn hành cuốn Lược Truyện Các Tác Giả
Việt Nam, đề cập đến nhà văn Khái Hưng nhưng cái chết của nhà văn bị thủ
tiêu ghi rất mập mờ như sự nghi vấn để chạy tội.
Trích từ
“Khái Hưng,
Hành Tŕnh Nhân Bản”
của
Vương
Trùng Dương
http://www.caliweekly.com/
|