Thế
Lữ
Anh Hồ
|
"Than ôi! thời oanh liệt nay c̣n đâu?" |
Tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, sinh tại Hà Nội, quê gốc Bắc Ninh. Bút danh
Thế Lữ là do đọc lái tên thật mà thành, c̣n có nghĩa là "quán trọ của
đời"
(06.10.1907 - 03.6.1989).
Thế Lữ viết truyện trinh thám, làm thơ.
Thế Lữ chỉ có hai tập thơ, được sáng tác trong ṿng bảy năm, nhưng lại
có ư nghĩa khai sinh một chặng phát triển mới cho thơ ca VN, đó là phong
trào Thơ Mới. Những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ 20, thơ cũ theo luật
Đường không thể chuyên chở những t́nh cảm mới. Ngay từ Tản Đà đă phải có
những yếu tố cách tân. Năm 1932, nhiều thi sĩ thổi vào thơ những đổi mới
cả về nội dung lẫn h́nh thức. Tranh luận giữa mới - cũ rất sôi nổi. Thế
Lữ chỉ lặng lẽ làm Thơ Mới, không tham gia tranh luận! Khi Thế Lữ cho
xuất bản tập "Mấy vần thơ" vào năm 1935, cũng là đặt dấu chấm hết cho
các cuộc tranh luận triền miên v́ "phái thơ cũ" đă hết lư lẽ để công
kích Thơ Mới nữa. Qua Thế Lữ lần đầu công chúng thơ được thưởng thức một
loại thơ ca mới mẻ...
Bài "Nhớ rừng" của Thế Lữ thực chất là một tuyên ngôn của chủ nghĩa lăng
mạn, không chấp nhận cái tầm thường...
Sự đa tầng, đa nghĩa thường làm cho thơ giàu sức khái quát và cũng là
thuộc tính tất yếu làm cho thơ có thể thành thi phẩm bất hủ. Sụ lay động
và lấp lánh của thơ thường loé lên, toả sáng từ nhiều tầng cảm xúc. Phải
chăng chính những cảm xúc hợp lư vẫn cứ mở rộng thơ ra về kích cỡ để tạo
nên từng nét thơ, hoặc cả dung mạo một bài thơ bất tử? Đọc "Nhớ rừng"
của Thế Lữ chừng như nhiều thế hệ đă nhận định như vậy...
Xưa nay, sự bí mật và kỳ vĩ của thơ ca thường khởi nguyên từ bút pháp
rất dung dị mà đậm chất hàm súc. Chỉ một "lốt" hổ trong "Nhớ rừng", Thế
lữ cũng đă tạo ra biết bao tầng nghĩa rất khác nhau, biến con hổ trong
thơ hoá thân thành muôn h́nh vạn trạng của muôn điều suy tưởng từ những
"gốc rễ" nhận thức rất riêng của từng người đọc.
Với Thơ Mới, Thế Lữ không luận chiến mà ông ung hoành dùng ngọn bút của
chủ nghĩa lăng mạn để lột tả cái khí phách của vị chúa sơn lâm khi bị
hăm ḿnh trong "cũi sắt".
Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hăm
Để làm tṛ lạ mắt, thứ đồ chơi.
Thơ cũ giam ḿnh trong lốt hổ, nhà thơ tả hổ sa cơ bằng bút pháp và kích
cỡ vung ngang, chém dọc rất tự nhiên, ngẫu hứng, sắc bén bằng tố chất
mới lạ của Thơ Mới?
Nếu trước đó, nhà thơ miền Nam Đông Hồ đă ví thơ cũ như "Chiếc áo năm
xưa đă cũ rồi", cũ về màu sắc đặt định, cũ cả về kích thước của cảm
xúc... th́ giờ đây Thế Lữ không muốn chỉ ra hết tất thảy nhược điểm của
thơ cũ. Trái lại, chừng như ông nh́n thấy hồn thơ cũ vẫn c̣n âm vang
trong Thơ Mới, có điều nó được diễn đạt thoải mái hơn, tự do hơn. Con hổ
bị giam nhưng vẫn cố ánh lên thứ khí phách phi thường bằng đặc chất của
chủ nghĩa lăng mạn qua những ngôn từ cực mạnh của của "gió rừng", của
"giọng nguồn hét núi", của những động từ dữ dội: "thét, dơng dạc, cuộn,
quắc...":
Ta bước chân lên, dơng dạc, đường hoàng,
Thế Lữ không đi tận cùng với thơ. Từ năm 1937, ông chuyển sang
kịch và cũng có nhiều thành tựu ở lĩnh vực này. Nhưng Thế Lữ đă
được coi là người cách tân số một của thơ Việt Nam thế kỷ 20, mở
đường cho một loạt thi sĩ tài năng xuất hiện trong thời gian
1932-1945.
(Vũ Quần Phương) |
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đă quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể muôn của loài
Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi.
"Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi"
phải chăng là câu thơ làm cho mănh lực phi thường của chúa sơn lâm trước
muôn loài vụt tan biến... mọi oai linh? Bởi quyền uy đó chẳng có ǵ để
đối chứng, để xác tín chăng? Cái siêu phàm chợt đồng nghĩa với nỗi cô
đơn? Trong bài thơ "Hi Mă Lạp Sơn" Xuân Diệu chừng như cũng chỉ ra điều
đó:
Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta
(.....)
Ta bỏ đời, mà đời cũng bỏ ta
Giữa vắng ngắt, giữa lạnh lùng thế tuyệt!
Phải chăng h́nh ảnh hổ bị giam là một ẩn dụ về sự độc đáo trong khuôn
khổ của thơ cũ, cũng chính là một thứ độc đoán tự giam ḿnh? Khuôn khổ
thơ hay là chiếc "cũi sắt" giam hổ trong thơ:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những b́nh minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
"Đâu... đâu... đâu...?" điệp động liên hồi về một quyền năng chỉ c̣n
trong hoài niệm của hổ. Sự khuôn định, niêm luật khắt khe chưa hẳn là
thế mạnh của thơ cũ, ngược lại nó g̣ bó thơ cũ. Nhưng tính súc tích, cô
đọng về ngôn từ của thơ cũ vẫn có thể vận dụng để làm giàu đẹp cho Thơ
Mới. Yêu tự do, muốn vượt mọi khuôn định, nhưng sự dài ḍng, khuynh
hướng viết "thoải mái", "tràng giang" nhất địng không thể là thế mạnh
của Thơ Mới, mà nó đă vấp phải trong giai đoạn sơ khai.
Phải chăng ngoài sự thắng lợi của Thơ Mới, vị chủ tướng Thế Lữ vẫn c̣n
rất trân trọng với thơ cũ về năng lực đậm đặc và súc tích của nó? Nếu
như vậy, "Nhớ rừng" của Thế Lữ đă mở ra triển vọng cho Thơ Mới về cả hai
cực: tiến tới sự phóng khoáng của ngày mai trong sự kế thừa, chắt lọc
bao tinh túy của cái hôm qua?
|
Nhớ Rừng
Tặng Nguyễn Tường Tam
(Lời con Hổ ở vườn Bách thú)
Gặm
một
khối
căm hờn
trong cũi sắt,
Ta nằm
dài, trông ngày tháng dần
qua.
Khinh lũ người
kia ngạo
mạn,
ngẩn
ngơ,
Giương
mắt
bé riễu
oai linh rừng
thẳm
Nay sa cơ,
bị nhục
nhằn
tù hăm
Để
làm tṛ lạ mắt,
thứ
đồ chơi.
Chịu
ngang bầy
cùng bọn
gấu
dở
hơi,
Với
cặp
báo chuồng
bên vô tư
lự.
Ta sống
măi trong t́nh thương
nỗi
nhớ,
Thủa
tung hoành, hống
hách những
ngày xưa.
Nhớ
cảnh
sơn
lâm, bóng cả,
cây già,
Với
tiếng
gió gào ngàn, với
giọng
nguồn
hét núi,
Với
khi thét khúc trường
ca dữ
dội
Ta bước
chân lên, dơng dạc,
đường
hoàng,
Lượn
tấm
thân như
sóng cuộn
nhịp
nhàng,
Vờn
bóng âm-thầm,
lá gai, cỏ
sắc.
Trong hang tối,
mắt
thần
khi đă quắc
Là khiến
cho mọi
vật
đều
im hơi.
Ta biết
ta chúa tể
muôn của
loài
Giữa
chốn
thảo
hoa, không tên không tuổi.
Nào đâu những
đêm vàng bên bờ
suối,
Ta say mồi
đứng
uống
ánh trăng tan?
Đâu những
ngày mưa
chuyển
bốn
phương
ngàn
Ta lặng
ngắm
giang san ta đổi
mới?
Đâu những
b́nh minh cây xanh nắng
gội
Tiếng
chim ca giấc
ngủ
ta tưng
bừng?
Đâu những
chiều
lênh láng máu sau rừng
Ta đợi
chết
mảnh
mặt
trời
gay gắt
Để
ta chiếm
lấy
riêng phần
bí mật?
Than ôi! thời
oanh liệt
nay c̣n đâu?
Nay ta ôm niềm
uất
hận
ngàn thâu
Ghét những
cảnh
không đời
nào thay đổi,
Những
cảnh
sửa
sang, tầm
thường,
giả
dối:
Hoa chăm, cỏ
xén, lối
phẳng,
cây trồng;
Giải
nước
đen giả
suối,
chẳng
thông ḍng
Len dưới
nách những
mô g̣ thấp
kém;
Dăm vừng
lá hiền
lành không bí hiểm
Cũng học
đ̣i bắt
chước
vẻ
hoang vu
Của
chốn
ngàn năm cao cả,
âm u.
Hỡi
oai linh, cảnh
nước
non hùng vĩ!
Là nơi
giống
hùm thiêng ta ngự
trị,
Nơi
thênh thang ta vùng vẫy
ngày xưa
Nơi
ta không c̣n được
thấy
bao giờ!
Có biết
chăng trong những
ngày ngao ngán
Ta đang theo giấc
mộng
ngàn to lớn
Để
hồn
ta phảng
phất
được
gần
ngươi
Hỡi
cảnh
rừng
ghê gớm
của
ta
ơi!
1936
THẾ LỮ
Trích từ
http://nguoivienxu.vietnamnet.vn
|