Home

 
 

 

Thế L

                                         Anh Hồ

 

http://nguoivienxu.vietnamnet.vn/dataimages/original/images774326_TheLu-tiger.jpg

 

"Than ôi! thời oanh liệt nay c̣n đâu?"

 

Tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, sinh tại Hà Nội, quê gốc Bắc Ninh. Bút danh Thế Lữ là do đọc lái tên thật mà thành, c̣n có nghĩa là "quán trọ của đời" (06.10.1907 - 03.6.1989).

 Thế Lữ viết truyện trinh thám, làm thơ. Thế Lữ chỉ có hai tập thơ, được sáng tác trong ṿng bảy năm, nhưng lại có ư nghĩa khai sinh một chặng phát triển mới cho thơ ca VN, đó là phong trào Thơ Mới. Những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ 20, thơ cũ theo luật Đường không thể chuyên chở những t́nh cảm mới. Ngay từ Tản Đà đă phải có những yếu tố cách tân. Năm 1932, nhiều thi sĩ thổi vào thơ những đổi mới cả về nội dung lẫn h́nh thức. Tranh luận giữa mới - cũ rất sôi nổi. Thế Lữ chỉ lặng lẽ làm Thơ Mới, không tham gia tranh luận! Khi Thế Lữ cho xuất bản tập "Mấy vần thơ" vào năm 1935, cũng là đặt dấu chấm hết cho các cuộc tranh luận triền miên v́ "phái thơ cũ" đă hết lư lẽ để công kích Thơ Mới nữa. Qua Thế Lữ lần đầu công chúng thơ được thưởng thức một loại thơ ca mới mẻ...

 

Bài "Nhớ rừng" của Thế Lữ thực chất là một tuyên ngôn của chủ nghĩa lăng mạn, không chấp nhận cái tầm thường...

Sự đa tầng, đa nghĩa thường làm cho thơ giàu sức khái quát và cũng là thuộc tính tất yếu làm cho thơ có thể thành thi phẩm bất hủ. Sụ lay động và lấp lánh của thơ thường loé lên, toả sáng từ nhiều tầng cảm xúc. Phải chăng chính những cảm xúc hợp lư vẫn cứ mở rộng thơ ra về kích cỡ để tạo nên từng nét thơ, hoặc cả dung mạo một bài thơ bất tử? Đọc "Nhớ rừng" của Thế Lữ chừng như nhiều thế hệ đă nhận định như vậy...

Xưa nay, sự bí mật và kỳ vĩ của thơ ca thường khởi nguyên từ bút pháp rất dung dị mà đậm chất hàm súc. Chỉ một "lốt" hổ trong "Nhớ rừng", Thế lữ cũng đă tạo ra biết bao tầng nghĩa rất khác nhau, biến con hổ trong thơ hoá thân thành muôn h́nh vạn trạng của muôn điều suy tưởng từ những "gốc rễ" nhận thức rất riêng của từng người đọc.

Với Thơ Mới, Thế Lữ không luận chiến mà ông ung hoành dùng ngọn bút của chủ nghĩa lăng mạn để lột tả cái khí phách của vị chúa sơn lâm khi bị hăm ḿnh trong "cũi sắt".

Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hăm
Để làm tṛ lạ mắt, thứ đồ chơi.

Thơ cũ giam ḿnh trong lốt hổ, nhà thơ tả hổ sa cơ bằng bút pháp và kích cỡ vung ngang, chém dọc rất tự nhiên, ngẫu hứng, sắc bén bằng tố chất mới lạ của Thơ Mới?

Nếu trước đó, nhà thơ miền Nam Đông Hồ đă ví thơ cũ như "Chiếc áo năm xưa đă cũ rồi", cũ về màu sắc đặt định, cũ cả về kích thước của cảm xúc... th́ giờ đây Thế Lữ không muốn chỉ ra hết tất thảy nhược điểm của thơ cũ. Trái lại, chừng như ông nh́n thấy hồn thơ cũ vẫn c̣n âm vang trong Thơ Mới, có điều nó được diễn đạt thoải mái hơn, tự do hơn. Con hổ bị giam nhưng vẫn cố ánh lên thứ khí phách phi thường bằng đặc chất của chủ nghĩa lăng mạn qua những ngôn từ cực mạnh của của "gió rừng", của "giọng nguồn hét núi", của những động từ dữ dội: "thét, dơng dạc, cuộn, quắc...":

Ta bước chân lên, dơng dạc, đường hoàng,

Thế Lữ không đi tận cùng với thơ. Từ năm 1937, ông chuyển sang kịch và cũng có nhiều thành tựu ở lĩnh vực này. Nhưng Thế Lữ đă được coi là người cách tân số một của thơ Việt Nam thế kỷ 20, mở đường cho một loạt thi sĩ tài năng xuất hiện trong thời gian 1932-1945.

      (Vũ Quần Phương)


Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đă quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể muôn của loài
Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi
.

 

"Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi" phải chăng là câu thơ làm cho mănh lực phi thường của chúa sơn lâm trước muôn loài vụt tan biến... mọi oai linh? Bởi quyền uy đó chẳng có ǵ để đối chứng, để xác tín chăng? Cái siêu phàm chợt đồng nghĩa với nỗi cô đơn? Trong bài thơ "Hi Mă Lạp Sơn" Xuân Diệu chừng như cũng chỉ ra điều đó:

Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta
(.....)
Ta bỏ đời, mà đời cũng bỏ ta
Giữa vắng ngắt, giữa lạnh lùng thế tuyệt!

Phải chăng h́nh ảnh hổ bị giam là một ẩn dụ về sự độc đáo trong khuôn khổ của thơ cũ, cũng chính là một thứ độc đoán tự giam ḿnh? Khuôn khổ thơ hay là chiếc "cũi sắt" giam hổ trong thơ:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những b́nh minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

"Đâu... đâu... đâu...?" điệp động liên hồi về một quyền năng chỉ c̣n trong hoài niệm của hổ. Sự khuôn định, niêm luật khắt khe chưa hẳn là thế mạnh của thơ cũ, ngược lại nó g̣ bó thơ cũ. Nhưng tính súc tích, cô đọng về ngôn từ của thơ cũ vẫn có thể vận dụng để làm giàu đẹp cho Thơ Mới. Yêu tự do, muốn vượt mọi khuôn định, nhưng sự dài ḍng, khuynh hướng viết "thoải mái", "tràng giang" nhất địng không thể là thế mạnh của Thơ Mới, mà nó đă vấp phải trong giai đoạn sơ khai.

Phải chăng ngoài sự thắng lợi của Thơ Mới, vị chủ tướng Thế Lữ vẫn c̣n rất trân trọng với thơ cũ về năng lực đậm đặc và súc tích của nó? Nếu như vậy, "Nhớ rừng" của Thế Lữ đă mở ra triển vọng cho Thơ Mới về cả hai cực: tiến tới sự phóng khoáng của ngày mai trong sự kế thừa, chắt lọc bao tinh túy của cái hôm qua?

 

          Nhớ Rừng

              Tặng Nguyễn Tường Tam
            (Lời con Hổ ở vườn Bách thú)

 
 

Gặm mt khi căm hn trong cũi st,
Ta n
m dài, trông ngày tháng dn qua.
Khinh lũ ng
ười kia ngo mn, ngn ngơ,
Giươ
ng mt bé riu oai linh rng thm
Nay sa c
ơ, bị nhục nhn tù hăm
Đ
ể làm tṛ lạ mắt, thứ đồ chơi.
Ch
u ngang by cùng bn gu dở hơi,
V
i cp báo chung bên vô tư lự.

Ta sống măi trong t́nh thương ni nhớ,
Thủ
a tung hoành, hng hách nhng ngày xưa.
Nh
ớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Vớ
i tiếng gió gào ngàn, vi ging ngun hét núi,
V
i khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta b
ước chân lên, dơng dc, đường hoàng,
L
ượn tm thân như sóng cuộn nhp nhàng,
V
n bóng âm-thm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang t
i, mt thn khi đă quc
Là khi
ến cho mi vt đu im hơi.
Ta bi
ết ta chúa tể muôn của loài
Gi
a chn tho hoa, không tên không tui.

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say m
i đng ung ánh trăng tan?
Đâu nh
ng ngày mưa chuyn bn phương ngàn
Ta l
ng ngm giang san ta đi mi?
Đâu nh
ng b́nh minh cây xanh nng gi
Ti
ếng chim ca gic ngủ ta tưng bng?
Đâu nh
ng chiu lênh láng máu sau rng
Ta đ
i chết mnh mt tri gay gt
Đ
ể ta chiếm ly riêng phn bí mt?
Than ôi! th
i oanh lit nay c̣n đâu?

Nay ta ôm niềm ut hn ngàn thâu
Ghét nh
ng cnh không đi nào thay đi,
Nh
ng cnh sa sang, tm thường, giả dối:
Hoa chăm, c
ỏ xén, lối phng, cây trng;
Gi
i nước đen giả suối, chng thông ḍng
Len d
ưới nách nhng mô g̣ thp kém;
Dăm v
ng lá hin lành không bí him
Cũng h
c đ̣i bt chước vẻ hoang vu
Củ
a chn ngàn năm cao cả, âm u.

Hỡi oai linh, cnh nước non hùng vĩ!
Là n
ơi ging hùm thiêng ta ngự trị,
i thênh thang ta vùng vy ngày xưa
N
ơi ta không c̣n được thy bao giờ!
Có biế
t chăng trong nhng ngày ngao ngán
Ta đang theo gi
c mng ngàn to ln
Đ
ể hồn ta phng pht được gn ngươi
H
i cnh rng ghê gm ca ta ơi!

                                                                                         1936
                                                                                      THẾ LỮ

 

                                                                        

                                                                         Trích từ                                            

                                                                  http://nguoivienxu.vietnamnet.vn