Home

 
 

                       Nht Linh

                                   Vin Sơn Nguyn Tường Bách

                               pic_23.jpg

Nhất Linh tên thật là Nguyễn Tường Tam là một nhà văn xuất chúng, lại là một chiến sĩ cách mạng lỗi lạc chống thực dân và chống Cộng Sản độc tài…

Anh sinh năm 1905, là người con thứ ba trong một gia đ́nh 7 người, trong đó có Nguyễn Tường Thụy, Nguyễn Tường Cẩm (bị Việt Minh thủ tiêu năm 1947), Nguyễn Tường Long (tức Hoàng Đạo mất năm 1948 tại Quảng Đông), Nguyễn Thị Thế, Nguyễn Tường Lân (tức Thạch Lam), và tôi là con út, hiện c̣n sống sót.

Gia đ́nh chúng tôi lúc đó tại một huyện lỵ nhỏ, huyện Cẩm Giàng, v́ bố mất sớm, nhà rất nghèo, do mẹ và bà ruột tần tảo duy tŕ. Do gia cảnh, chúng tôi từ nhỏ được tiếp xúc với cảnh bùn lầy nước đọng, nghèo cùng cuả nông dân, ảnh hưởng đến suy nghĩ và viết văn sau này, với tính chất b́nh dân, vị tha, không ưa những thứ quyền qúy, trưởng giả, và ghét danh lợi, mấy đặc điểm cuả Tự Lực Văn Đoàn sau này.

Bà nội và mẹ chúng tôi đều là Phật tử chân thành. Những câu "Đời là bể khổ", "Cửa Phật từ bi" đă thấm vào đầu óc người Việt Nam. Có thể triết lư này đă có ảnh hưởng đến t́nh thương bàng bạc trong các tác phẩm cuả Nhất Linh, Thạch Lam.

Những mâu thuẫn trong các gia đ́nh hồi đó gây ấn tượng không ít cho Nhất Linh, v́ anh là người có phản ứng nhạy cảm nhất đối với hiện trạng và biến chuyển cuả xă hội. Anh là con người đi tiên phong trong suy nghĩ và trong hành động. V́ thế có thể nói anh là người đi trước thời đại, anh có nhiều sáng kiến, có óc sáng tạo và biết biến suy nghĩ thành hành động.

Một mặt, khác với nhiều người chỉ đi theo danh lợi cá nhân, anh hoạt động hoàn toàn v́ lư tưởng, v́ muốn làm cho xă hội tốt đẹp hơn, cho người dân sống được dễ chiụ hơn.

Muốn hiểu rơ Nguyễn Tường Tam, thiết tưởng cần phải nhận thức rằng vào thời đại đó, có ba trào lưu nổi bật trong xă hội Việt Nam. Thứ nhất là trào lưu dân tộc độc lập mà cao điểm là cuộc khởi nghĩaYên Bái, hai là trào lưu cải cách xă hội, đ̣i phê phán những truyền thống phong kiến bảo thủ và khắc nghiệt, đ̣i tự do phóng khoáng cho con người, ba là trào lưu cải cách văn học, rời bỏ những thứ giáo điều, g̣ bó, sáo rỗng, đi tới một nền văn nghệ tự nhiên, nhân đạo và trong sáng hơn.

Năm 1932, cùng một số anh em, anh sáng lập tờ báo Phong Hóa ó thể gọi là mở một thời kỳ mới trong văn học. Cùng với số nhà văn tài hoa, anh thành lập Tự Lực Văn Đoàn, đánh dấu sự phồn thịnh văn học. Năm 1935, tờ Ngày Nay được xuất bản. Năm 1936, anh khởi xướng Phong Trào Ánh Sáng xây dựng nhà rẻ tiền cho người nghèo.

Cùng với những hoạt động bận rộn trên, anh đă viết một số tiểu thuyết và truyện ngắn, mà tiêu biểu là cuốn "Đoạn Tuyệt", đều có giá trị văn chương và xă hội rất cao. Sức làm việc của anh khó có ai b́ được.

Độc giả và các giới xă hội đều hoan nghênh cả các tác phẩm và hoạt động của anh.

Nhưng dù đă đạt tới điểm cao cuả danh vọng, anh cũng quyết tâm dấn ḿnh vào cuộc đời cách mạng gian nan và đầy chông gai. Năm 1938, cùng với một số bạn hữu, anh thành lập đảng Đại Việt Dân Chính. Năm 1941, do Pháp khủng bố, anh phải chạy sang Trung Quốc, kết hợp với Việt Nam Quốc Dân Đảng, và hợp tác với cụ Nguyễn Hải Thần. Năm 1945, tháng 11, anh trở về Hà Nội, tổ chức hàng ngũ quốc gia chống lại Việt Minh Cộng Sản. V́ t́nh thế thúc đẩy, tháng 2 năm 46, anh giữ chức Bộ Trưởng Ngoại Giao trong chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến. Nhưng từ tháng 4-46, hai bên phá liệt, anh lại sang Trung Quốc, lưu vong một lần nữa.

Năm 1947, v́ phản đối việc thoả hiệp với Pháp, anh ở lại HongKong cho tới 1951, v́ sức khoẻ yếu, anh về nước, với dự tính chỉ hoạt động về văn học. Nhưng tới 1959, anh lại tham dự Mặt Trận Quốc Dân Đoàn Kết, chủ trương chống độc tài, xây dựng tự do dân chủ.

Việc này đưa đến kết cuộc bi thương là ngày 7-7-1963, anh uống thuốc ngủ tự sát, một ngày trước khi phải ra toà. Lúc đó, tôi ở ngoại quốc, nghe tin dữ, cũng chỉ biết khóc thầm cho người anh thân yêu, từ nay vĩnh biệt.

Cuộc đời thực là đặc biệt, thực là đầy đủ cuả một anh tài kiệt xuất của đất nước. Ít có một tài năng và có công lao toàn diện về cả mặt văn học cũng như cách mạng như Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Chúng ta có thể tự hào về đức tính và sự nghiệp của anh.

Song, những thất bại và đau thương của Nguyễn Tường Tam cũng phản ảnh thất bại và đau thương của dân tộc. Ngày nay, những đau thương thương đó vẫn c̣n, dưới chế độ chuyên chế độc đảng. Trong lúc kỷ niệm quá khứ, điều quan trọng nhất là cần phải gắng sáng tạo một tương lai mới, với sự đồng ḷng nhất chí không phân biệt chủng tộc, địa phương, tôn giáo, già trẻ, để đấu tranh trong một vận hội mới của dân tộc.

Đó chính là cách kỷ niệm tốt nhất về Nhất Linh Nguyễn Tường Tam và tất cả các vị tiền bối đă dấn thân và hy sinh cho đại cuộc.

Những nét đáng chú ư (1)

Năm 1933, Nhất Linh thành lập Tự Lực Văn Đoàn gồm có:

Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam)
Khái Hưng (Trần Khánh Giư), c̣n gọi là Nhị Linh
Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long)
Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân)
Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu)
Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ)

Sau này có thêm Xuân Diệu, Trần Tiêu (em của Khái Hưng), Nguyễn Tường Mạnh một số nhà văn khác cộng tác chặt chẽ như: Trọng Lang, Huy Cận, Thanh Tịnh, Đoàn Phú Tứ.

Tác phẩm văn học gồm có:

Tiểu thuyết: Gánh hàng hoa (cùng Khái Hưng, 1934) Đời mưa gió (cùng Khái Hưng, 1934) Nắng thu (1934) Đoạn tuyệt (1934-1935) Lạnh lùng (1935-1936) Đôi bạn (1936-1937) Bướm trắng (1938-1939) Xóm cầu mới (1949-1957). Trường thiên, viết dở dang. Gịng sông Thanh Thủy (1960-1961). Trường thiên, tác phẩm cuối cùng, gồm ba tập: Ba người bộ hành, Chi bộ hai người , Vọng quốc.

Tập truyện: Nho phong (1924) Người quay tơ (1926) Anh phải sống (cùng Khái Hưng, 1932 - 1933) Đi Tây (1935) Hai buổi chiều vàng (1934-1937) Thế rồi một buổi chiều (1934-1937) Thương chồng (1961).

Tiểu luận: Viết và đọc tiểu thuyết (1952-1961)

 

           Trích từ

"Tự Lực Văn Đoàn: Nhất Linh"

http://www.xuquang.com/dialinhnk/   
           (1) http://dongtac.net/

 o0o

 

                              Hoài nim Nguyn Tường Tam

Hiếu Chân

Bài này trước đây (tháng 7 năm 1963) đă được đăng trên nhật báo Tự do (mục “Nói hay đừng”), nhưng bị kiểm duyệt bỏ mất nhiều. Nay, chúng tôi t́m được bản thảo viết tay và xin phép tác giả Hiếu Chân cho lục đăng toàn vẹn nguyên văn.

Vào một ngày đầu xuân năm Bính Tuất (1946), lần thứ nhất tôi gặp Anh trên căn gác hẹp của toà nhà 80 Quan Thánh. Buổi sáng hôm ấy tuy đă sang giêng mà trời c̣n rét như cắt v́ dường như mùa đông gió lạnh hiếm có của năm Ất Dậu vừa qua hăy c̣n muốn nán lại, đất Bắc đang trải qua một cuộc chuyển ḿnh vĩ đại đầy tang tóc với không biết bao nhiêu biến cố trọng đại dồn dập diễn ra từng ngày, từng giờ. Lúc tôi đẩy cửa pḥng bước vào th́ đă thấy Anh ngồi đối diện với anh Khái Hưng trước một chiếc bàn trên có hai tách cà-phê đang bốc khói. Hôm ấy Anh mặc chiếc blouson da đúng như trong bức ảnh đă đăng trên các báo hồi anh mới từ Hoa Nam trở về. Tuy biết đó là Nguyễn Tường Tam, một lănh tụ trong Mặt trận Cách mạng Đồng minh mà tôi đang là một cán bộ, nhưng tôi vẫn không khỏi kinh ngạc và e dè trước bộ mặt quắc thước của Anh: tôi dừng chân, gật đầu chào định nói lời xin lỗi để quay ra th́ anh Khái Hưng nh́n tôi qua cặp mắt kính cười “hà hà” đứng lên nắm lấy cánh tay tôi kéo vào và bảo:
“Anh Nhất Linh của chúng ḿnh đây chứ có phải hồ cáo ǵ đâu mà anh ngại? Cứ vào đây.”
Tôi e ấp đáp:
“Nhưng sợ các anh có chuyện riêng chăng?”
Lúc này Nguyễn Tường Tam cũng nh́n tôi mỉm cười đáp:
“Lúc này c̣n làm ǵ có chuyện riêng nữa! Đồng chí cứ vào!”
Tôi ngồi xuống ghế rồi nhưng vẫn yên lặng ngắm nh́n Anh không chớp mắt: con người cao lớn, quắc thước ngồi trước mặt tôi đây đă ngự trị trong tâm hồn tôi suốt cả thời kỳ niên thiếu; trong mấy năm học ở Trường Bưởi tôi đă say mê Nhất Linh và Khái Hưng qua các tác phẩm văn nghệ. Cũng như hầu hết – nếu không muốn nói là toàn thể – thế hệ thanh niên cùng lứa tuổi với tôi. Tôi đă chịu ảnh hưởng sâu đậm của Tự lực Văn đoàn về mặt văn nghệ, tư tưởng. Nhưng giờ đây chính người ấy lại là người lănh đạo tôi trên con đường cách mạng giải phóng dân tộc. Bởi vậy tôi không biết phải nh́n Nguyễn Tường Tam theo khía cạnh nào.
Thấy tôi ngồi ngây người, phân vân, anh Khái Hưng liền cất tiếng giới thiệu tôi với Nguyễn Tường Tam:
“Đồng chí đây là một cây bút xuất sắc mà chúng tôi mới t́m ra; anh ấy đă viết mấy thiên phóng sự rất đặc biệt trên Ngày nay bộ mới sau ngày Nhật đảo chính và từ trước ngày 19 tháng 8 năm ngoái anh ấy đă hoạt động cách mạng.”
Nguyễn Tường Tam nh́n lại tôi lần nữa rồi đưa tách cà-phê mời tôi. Khái Hưng quay lại tôi hỏi:
“Thế nào? Ở Lạng Sơn về rồi đấy à? T́nh h́nh trên ấy ra sao?”
Tôi tuần tự tường thuật lại t́nh h́nh Lạng Sơn về mọi mặt chính trị, quân sự, nội bộ rồi đôi mắt tôi chăm chăm nh́n vào Anh, tôi nói nửa như chất vấn, nửa như trách móc:
“Lệnh của Trung ương ban xuống bắt phá cuộc tổng tuyển cử bịp bợm của cộng sản đă được học tập và chuẩn bị chu đáo, chỉ đợi ngày thi hành th́ đánh độp một cái lại có phản lệnh băi bỏ rồi tiếp đến việc Trung ương kư Tinh thành Đoàn kết với cộng sản mà không hề có lời giải thích hoặc giải thích không đầy đủ khiến tinh thần các đồng chí cán bộ và chiến sĩ Quốc dân quân hoang mang. Cán bộ các cấp chúng tôi ở địa phương không thể hiểu được thái độ của Trung ương ra sao cả! Chúng tôi hy sinh tính mạng, sống cơ cực hiểm nguy có phải là để tranh lấy 70 ghế cho Trung ương trong cái Quốc hội của bọn Vẹm đâu? Vả chăng, nếu các đồng chí thấu hiểu t́nh h́nh địa phương, tất các đồng chí đă không kư kết một cách quá dễ dăi như thế được v́ hơn ai hết chúng tôi tin chắc rằng không thể nào thoả hiệp với bọn ‘Két’, dù là thoả hiệp tạm thời. Xem ngay như ở Lạng Sơn th́ rơ: ở đấy ta mạnh hơn chúng về chính trị và quân sự, thế mà ngay sau khi bản Tinh thành Đoàn kết được công bố vài ngày, chúng nó đă trở mặt cướp trụ sở của ḿnh, lấy súng và âm mưu ám sát cán bộ ta, như thế th́ sự kư kết của các anh ở Trung ương chỉ là một hành động có hại cho địa phương; bản Tinh thành Đoàn kết ấy đă trở thành một lợi khí cho chính quyền Vẹm trói chân trói tay chúng tôi mà thôi.”
Tôi nói dứt lời, Anh trầm ngâm suy nghĩ rồi nh́n thẳng vào mắt tôi Anh đáp:
“Riêng tôi cũng biết rơ như thế nhưng xin các đồng chí xét rộng ra mới hiểu nỗi khổ tâm của chúng tôi. Những người cộng sản đă mau tay cướp được chính quyền, trong việc này họ đă được lợi thế rất nhiều v́ sự nhu nhược thiển cận của chính quyền Trần Trọng Kim cũng như sự pḥ trợ gián tiếp của bọn cầm quyền quân sự của Nhật ở đây sau ngày đ́nh chiến. Sau này họ lại mua chuộc được bọn tướng lĩnh Tàu và ngầm kết liên với bọn thực dân Pháp. Tinh thần dân chúng cũng như cán bộ ta tuy có cao nhưng nếu cuộc tranh đấu đi đến nội chiến th́ máu đồng bào ta và cán bộ ta sẽ phải chảy rất nhiều, hậu quả tai hại không biết thế nào mà lường được, nhất là dân tộc ta đă phải trải qua bao thảm hoạ chiến tranh, nào bom đạn Đồng minh, nào bệnh tật, nào nạn đói năm ngoái. Bởi vậy tranh đấu quyết liệt, chúng ta lúc nào cũng phải nghĩ đến nhân dân đồng bào. Sự kư kết này cũng có những lư do của nó, xin đồng chí hiểu cho.”
Mặc dầu phát ra từ miệng một Nhất Linh mà tôi hằng mê say kính phục, lời giải thích đó không làm tôi thoả măn. Điều này cũng dễ hiểu v́ hồi đó tôi mới ngót ba mươi tuổi lại vừa bước chân vào con đường hoạt động cách mạng th́ thử hỏi làm sao tôi có thể chấp nhận một quan niệm tranh đấu lưng chừng, uỷ mị kiểu văn nhân ḷng mến như thế được? Nhất là từ sau ngày Đảng Cộng sản Đông Dương cướp được chính quyền, tất cả những hành vi của họ qua mắt tôi đều đúng tăm tắp với những lư thuyết của Đệ tam Quốc tế mà tôi đă thấu hiểu qua sách vở báo chí cộng sản. Trước mắt tôi lúc bấy giờ chỉ có một mục tiêu duy nhất là đánh đổ chính quyền cộng sản; mục tiêu ấy có đạt được th́ mới mong cứu văn dân tộc được; bởi thế mọi thoả hiệp với Việt Minh dưới bất cứ h́nh thức nào cũng đều bị tôi gạt bỏ; đối với tôi hồi ấy th́ chỉ có hai thái độ: một là tranh đấu đến một mất một c̣n với cộng sản, hai là khuất phục thuận ṭng chúng. Chứ không thể có thoả hiệp, dù là thoả hiệp tạm thời theo chính sách giai đoạn.
Với thái độ quyết liệt như vậy, tôi từ biệt Nguyễn Tường Tam ra đi trong một tâm trạng bâng khuâng nghi ngại. Sau đó v́ phải bôn ba trên đường công tác tôi không c̣n được gặp Anh lần nào nữa nhưng hồi ở tỉnh bộ Nam Định, khi nhận được tin kư kết bản Hiệp định Sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946 với Pháp, thấy không có tên Nguyễn Tường Tam trong đó, tôi những mừng thầm không khác ǵ chính danh dự ḿnh được cứu văn. Thế rồi, không cần đợi chỉ thị của Trung ương, tôi liền thảo luận cùng các đồng chí trong tỉnh bộ tổ chức ngay hôm đó một cuộc biểu t́nh phản đối Hiệp định Sơ bộ. Thành thực mà nói, nếu có tên Nguyễn Tường Tam kư dưới bản Hiệp định đó có lẽ tôi đă không làm thế: sau này phân tích tâm trạng của chính ḿnh, tôi cũng không hiểu tại sao ḿnh lại vô lư đến như thế nhưng ở vào cái tuổi ba mươi tôi đâu có cần lư luận tách bạch? Kế đó với tư cách là Tổng trưởng Ngoại giao Việt Nam đi dự Hội nghị Sơ bộ với phái đoàn Pháp tại Đà Lạt, Hội nghị này chuẩn bị cho cuộc đàm phán chính thức ở Fontainebleau cũng sẽ do Anh cầm đầu. Theo dơi các tin tức trên báo chí và qua chỉ thị của Trung ương, tôi chỉ nóng ḷng mong mỏi cho Hội nghị Đà Lạt tan vỡ.
Rồi quả nhiên nó tan vỡ thật: ḷng tôi lại như được cất bổng đi một gánh nặng. Kế đó khi hay tin Nguyễn Tường Tam đă từ bỏ chức vị Tổng trưởng Ngoại giao, ly khai Chính phủ Liên hiệp để trốn sang Trung Hoa đồng thời với cụ Nguyễn Hải Thần để tổ chức lại lực lượng cách mạng quốc gia chống Cộng phản Thực, ḷng tôi mừng rỡ khôn xiết. Ngay đêm đó tôi tổ chức một bữa rượu cùng mấy chiến hữu uống cho đến quá nửa đêm.
Cho đến giờ tôi vẫn không hiểu tại sao tôi lại có tâm trạng và thái độ như vậy – một tâm trạng khó hiểu và một thái độ hầu như phi lư – nhưng quả t́nh là con người Nguyễn Tường Tam đă ngự trị tâm hồn tôi: tôi muốn cho nhân vật ấy được trong trắng cao thượng trong ḷng tôi măi măi cho đến khi tôi từ giă cơi trần h́nh ảnh ấy cũng không bị lu mờ, hoen ố.
Sau này, khi cuộc kháng chiến nổ ra, tôi lưu lạc hết năm này qua năm khác trên miền rừng núi Sơn Tây – Hoà B́nh nhưng không lúc nào là không nhớ đến bóng dáng, đến sắc diện của các chiến hữu đă cùng tôi san sẻ những nỗi cay đắng, khổ đau, những niềm hy vọng phấn khởi trong cuộc tranh đấu hồi 1945-1946 như Nguyễn Tường Tam, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Tường Bách, Gia Trí, mặc dầu tôi cho rằng không chắc ǵ những người ấy đă nhớ đến tôi. Hoài niệm đó có lần đă được diễn tả ra thành lời thơ qua những bữa rượu tiêu sầu bên sông Đà:

Ta nhớ xa xa những bạn nào,
Đêm nay trăng sáng, nhạt thưa sao.
Bên trời, ôm ấp hàm ca hận,
Vọng mỹ nhân hề ai hát ngao?

Ba chữ “vọng mỹ nhân” tôi lấy ở “Phú Xích Bích” của Tô Đông Pha, có nghĩa là nhớ bạn hiền, nhớ người quân tử.
Bây giờ đây, sau hơn mười năm sống ngoài xă hội cộng sản, thật khó mà hồi tưởng lại được một cách trung thực và đầy đủ cái tâm trạng của chính tôi trong mấy năm đầu của cuộc kháng chiến: tâm trạng đó không hẳn là tâm trạng tuyệt vọng của một kẻ chiến bại v́, tuy lạc lơng theo cái biển người từng đợt lại từng đợt kéo đi trên mọi nẻo đường từ khu 3 đến Việt Bắc, nơi nào cũng nặng trĩu một không khí kinh hoàng của chết chóc giam cầm, giả dối và nghi kỵ, tôi đă gặp được biết bao tâm hồn đồng điệu! Họ là những thanh niên vừa được tha ra khỏi những trại tập trung Mai Côi, Phi Đ́nh, Thái Nguyên, Bắc Kạn sau hàng năm trời bị đày ải, đánh đập nhưng tinh thần của họ càng nhờ thế mà thêm vững chắc: niềm tin tưởng của họ là một niềm tin tưởng bất diệt vào tương lai cuộc tranh đấu của cả dân tộc để tự thoát ra khỏi mọi chế độ áp bức dưới bất cứ h́nh thức nào. Nhiều người trong số những thanh niên đó kể lại cho tôi nghe rằng có những nam nữ chiến sĩ Quốc dân Đảng trước khi nhắm mắt ĺa đời sau những ngày dài bệnh hoạn trong một xó trại giam ở giữa rừng c̣n nhắc đến tên “Nguyễn Tường Tam”. Hơn thế lại óc những chiến sĩ trong khi bị bịt mắt dẫn ra pháp trường cũng như trước khi giơ ngực ra để đón nhận lấy những phát đạn hoặc những nhát dao của bọn đao phủ cộng sản đă thu hết tàn lực của họ để hô to ba tiếng “Nguyễn Tường Tam”. Sau khi được nghe chuyện do chính miệng những người thoát chết kể lại, tôi cảm thấy ḷng được an ủi một phần nào trong cái cảnh bơ vơ lạc lơng của một kẻ chiến bại.
Đến cuối năm 1947 và sang đầu năm 1948, sau khi bị thất vọng v́ bài diễn văn của Cao uỷ Pháp Bollaert đọc tại Hà Đông (trong vùng chiếm đóng), chính quyền cộng sản liền cho phát động một phong trào tuyên truyền đă kích rất sâu rộng để triệt hạ uy tín của Bảo Đại, bỡi lẽ thời ấy, trong dư luận dân chúng cũng như các phần tử trí thức bỗng dưng phát sinh ra một khuynh hướng luyến tiếc vị vua cuối cùng của triều Nguyễn đă thoái vị: người ta nhắc lại những lời trong bản tuyên cáo thoát vị của vua Bảo Đại với rất nhiều thiện cảm. Để thủ tiêu nốt đôi chút uy tín mà người vắng mặt c̣n lưu lại trong tâm năo dân chúng, bọn cộng sản đă dùng đủ mọi h́nh thức: ngoài những cuộc mít-tinh tuyên truyền liên tục, những biểu ngữ nhan nhản khắp nơi, chúng c̣n cho vẽ tranh để bôi nhọ Bảo Đại và nhất là kết rơm thành những “h́nh nộm” Bảo Đại đặt tại các chợ búa trường học, các chốn thị tứ rồi cho người chọc mắt, đâm thủng ngực cuối cùng đem đốt.
Thế rồi bỗng nhiên phong trào đó ngưng hẳn lại để được thay thế bằng một phong trào khác, rầm rộ hơn: phong trào hạ bệ Nguyễn Tường Tam.

Phong trào tuyên truyền đả phá Nguyễn triều và Bảo Đại rầm rộ về mặt tổ chức và nặng nề về h́nh thức bề mặt bao nhiêu th́ trái lại phong trào hạ bệ Nguyễn Tường Tam lại chú trọng về chiều sâu. Những người cộng sản Đông Dương thừa hiểu rằng uy tín của Nguyễn Tường Tam đă được xây dựng một cách vững chắc trong tâm năo đại đa số nhân dân quần chúng trước hết bởi văn học nghệ thuật rồi sau đó lại được củng cố và phát triển bởi những hoạt động cách mạng, cho nên muốn huỷ diệt cái thế lực tinh thần của nhân vật đó trong dư luận không thể dùng đến mít-tinh, biểu ngữ, khẩu hiệu hoặc h́nh nộm mà được. Họ cũng thừa biết rằng những tư tưởng cách mạng dân chủ của Đảng Đại Việt Dân chính do Nguyễn Tường Tam khai sáng và lănh đạo đă thâm nhập vào cốt tuỷ của cả một thế hệ thanh niên do con đường văn hoá th́ không thể một sớm một chiều đánh tan đi được bằng những tṛ bịp bợm quá nông cạn, hời hợt. Chính v́ thế, từ cuối năm 1947 trở đi, Đảng Cộng sản Đông Dương đă ra lệnh cho tất cả đoàn thể văn hoá cũng như đảng bộ các cấp phải thường xuyên học tập, thảo luận để đưa ra những lư luận đả kích Nguyễn Tường Tam và nhóm Tự lực Văn đoàn dưới h́nh thức phê b́nh văn học và nghệ thuật.
Những lư luận đó không nhất thiết được đưa ra một cách máy móc như trong vấn đề chính trị khác mà nội dung thay đổi tuỳ theo đối tượng tuyên truyền của chúng. Đại khái đối với giới trí thức thanh b́nh th́ chúng tŕnh bày Nguyễn Tường Tam như một nhân vật điển h́nh cho phong trào phản ứng uỷ mị của giai cấp tiểu tư sản trong chế độ áp bức của thực dân phong kiến và cái cách mạng kiểu tiểu tư sản của Nguyễn Tường Tam chỉ là một thứ cách mạng tạm bợ trong một giai đoạn quá độ, chỉ cần thiết trong một xă hội tiệm tiến chứ đối với một xă hội đă có cách mạng bột phát như của Việt Nam sau ngày 19 tháng 8 năm 1945 th́ một phong trào cách mạng như thế rơ rệt là lỗi thời. Đó là luận điệu giải thích cho giới trí thức trung lưu c̣n đối với các cán bộ đảng viên, bọn cộng sản thẳng thắn cho rằng Nguyễn Tường Tam là kẻ thù trước mắt của cuộc cách mạng vô sản bởi lẽ, với danh nghĩa giải phóng dân tộc và chủ trương đem chính quyền về cho nhân dân (dân chính) phong trào cách mạng của Nguyễn Tường Tam rất được đại đa số quần chúng tán thành và như thế một mai lực lượng tiềm tàng của cách mạng dân chính có thể trở thành nguy cơ lâu dài cho chính quyền vô sản. V́ những lư do đó người cộng sản phải đối phó ngay từ bây giờ và luôn luôn đả phá uy tín của Nguyễn Tường Tam và triệt hạ mọi phần tử có khuynh hướng dân chính.
Qua hai phong trào hạ bệ nói trên hồi đó tôi thường lấy làm lạ tự hỏi tại sao trong khi chúng đă nắm trọn chính quyền trong tay và đang gặp hoàn cảnh vô cùng thuận lợi để thực thi chủ nghĩa, nấp sau nhăn hiệu kháng chiến chống Pháp, bọn Cộng sản Đông Dương lại tỏ ra quá sợ hăi những kẻ vắng mặt? Và nhất là trong lúc chúng đang cao rao khẩu hiệu “Toàn dân đoàn kết chống xâm lăng” mà chúng lại giở những tṛ xảo quỷ ấy ra th́ khỏi sao gây hoang mang, thắc mắc cho dân chúng v́, một mặt th́ kêu gọi đoàn kết mà một mặt lại trâng tráo thực hiện chia rẽ như thế, dân chúng ai c̣n tin nữa?
Thế rồi một bữa kia, nhân lúc tửu hứng, một đảng viên cao cấp của cộng sản đă nói lộ ra cho tôi biết cái nguyên nhân chính trong phong trào hạ bệ Nguyễn Tường Tam: sở dĩ Chính phủ và Đảng phải làm thế là v́ ở bên Trung Hoa Nguyễn Tường Tam đang tiến mạnh đến sự liên kết tất cả các đảng phái quốc gia để lập ra một tổ chức khá mạnh là Mặt trận Quốc gia Liên kết (thực ra th́ đó là Mặt trận Thống nhất Toàn lực chứ không phải Quốc gia Liên kết như lời cán bộ đảng viên đă nói). Nhân đó tôi có hỏi tại sao phong trào hạ bệ Bảo Đại tự nhiên lại ngưng để thay thế bằng phong trào đả kích Nguyễn Tường Tam th́ y trả lời:
“Bảo Đại dù sao cũng chỉ là nhân vật rất lu mờ, uy tín không đáng kể cho nên dù hắn có bắt tay với Pháp, cũng không đáng sợ. Trái lại, uy tín và anh hùng của Nguyễn Tường Tam đối với dư luận trong nước và quốc tế lúc này đây và mai sau nữa vẫn c̣n là trở ngại khá lớn cho chính quyền vô sản chúng ta. Từ trước đến giờ các lực lượng quốc gia phản động chỉ được coi như những viên gạch vỡ lăn lóc, mỗi nơi một viên nhưng bây giờ Nguyễn Tường Tam có thể là chất xi-măng gắn liền những viên gạch rời rạc đó vào với nhau để trở thành một khối chận đường của chính thể ta sau này.”
Đồng thời với cuộc tấn công bằng tuyên truyền và học tập có kế hoạch tỉ mỉ, chính quyền cộng sản lại bắt tay vào một cuộc khủng bố mới. Ngoài việc bắt bớ thêm một số người bị nghi là đă có những hoạt động chống đối chính quyền từ trước ngày Toàn quốc Kháng chiến, ngoài việc đem những phạm nhân chính trị – hầu hết là đảng viên các đảng quốc gia đối lập – ra tàn sát một cách vội vă, không cần đến mọi h́nh thức và thủ tục tư pháp nhân cuộc quân Pháp nhảy dù xuống Phú Thọ và tiến đánh Việt Bắc, chính quyền và Đảng Cộng sản c̣n bắt tay vào một cuộc thanh trừng rộng lớn trong bộ máy hành chính và quân sự: tất cả cán bộ các ngành đều phải khai lư lịch đến tam đại, phải tự tay ghi rơ thành phần xă hội của ḿnh vào lư lịch (công nhân, nông dân hay tiểu tư sản? Trí thức bậc nào? Tôn giáo nào?); thế rồi sau đó lệnh giản chính được thi hành để loại bỏ những phần tử bị coi là bất hảo ra khỏi bộ máy hành chính, ra khỏi các chức và chỉ huy trong quân đội và nhất là ra khỏi các cơ cấu của Đảng và Mặt trận. Tất cả những biện pháp đó đều nhắm một mục đích là loại trừ mọi ảnh hưởng của phong trào Quốc gia Liên kết có thể từ hải ngoại tẩm nhập vào nội bộ kháng chiến, một phong trào mà tinh thần dân chính của Nguyễn Tường Tam là động cơ chủ năo.
Cuối năm 1949, sau khi hầu hết tỉnh Sơn Tây đă lọt vào phạm vi chiếm đóng của quân đội viễn chinh Pháp, vào một ngày cuối thu, ba-lô trên lưng, tôi sang một làng nọ thuộc phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên để mở lớp huấn luyện địch vận, làng này ở cách làng Thổ Tang, quê hương Nguyễn Thái Học có một cánh đồng và lúc bấy giờ đúng vào thời kỳ cộng sản đang khủng bố mạnh nhất: nhiều nhân sĩ cao niên đă từng tham gia cách mạng trong phán bảo Nguyễn Thái Học cũng lần lượt bị bắt và đưa đi trại tập trung. Lớp huấn luyện cán bộ địch vận mà tôi phụ trách mở ngay tại một toà nhà ngói cổ, có sân và có vườn rộng nhưng chủ nhà, một cụ Lang nổi tiếng Nho phong nền nếp năm đó đă ngót sáu mươi tuổi, cũng đă bị bắt từ mấy tháng trước. Trong thời kháng chiến, các lớp huấn luyện đều được tổ chức theo lối sống tập thể v́ học viên hầu hết đều là những cán bộ hạ tầng từ trong vùng địch chiếm trốn ra theo học. Vào một đêm trăng nọ, giữa khoá huấn luyện, phần kiểm thảo hàng ngày vừa xong, theo thường lệ, các cán bộ huấn luyện cũng như các học vấn đều tụ tập ở giữa sân để dự cuộc “vui nhộn” trong đó mỗi người cống hiến một tṛ giúp vui cho tập thể, hoặc một bản đàn, một bài ca, hoặc ngâm thơ hoặc diễn kịch cùng lắm phải kể một câu chuyện tiếu lâm hoặc chuyện cổ tích. Thế rồi đến lượt một học vấn tuổi chừng ba mươi, vẻ người láu lỉnh, quê ở Phúc Thọ đứng lên tự giới thiệu để ca một bài vọng cổ: cử toạ vỗ tay reo lên v́ điệu hát vọng cổ trong thời đó ở miền Bắc là một môn văn nghệ độc đáo bên cạnh những bài tân nhạc ca tụng cách mạng và lănh tụ. Ngồi một góc sân tôi cũng theo dơi cuộc vui nhộn th́ thấy người cán bộ học vấn giới thiệu cái tên của bài ca là “Nguyễn Tường Tam”, tôi lạ quá cố lắng tai nghe. Qua mấy câu nói lối kể lại gốc tích Nguyễn Tường Tam đại khái như sau:
Vốn quê ở Quảng Nam, Nguyễn Tường Tam thuộc ḍng dơi phong kiến, tổ tiên đều làm quan, cha th́ làm tri huyện Cẩm Giàng cho đến Nguyễn Tường Tam sang Pháp du học đỗ bằng cử nhân nhưng v́ tính thích lêu lổng chơi bời, thực dân không dùng nên sinh ra bất măn v.v… Sau mấy câu nói lối, bắt sang diệu vọng cổ, y đổi giọng ngâm nga kết tội Nguyễn Tường Tam là tên trùm phản động, là tiêu biểu cho giai cấp trí thức tiểu tư sản lạc hậu, thối nát; cuối cùng là bài ca ngả hẳn sang luận điệu hô hào cổ vơ đồng bào đừng nên mắc mưu tuyên truyền của bọn phản động đội lốt cách mạng mà Nguyễn Tường Tam là kẻ cầm đầu và dĩ nhiên bài ca kết thúc bằng một vài câu xưng tụng Hồ Chí Minh, đề cao cuộc cách mạng vô sản.
Nghe hết bài vọng cổ, tôi trầm ngâm suy nghĩ trong khi từ cán bộ huấn luyện đến cán bộ học vấn ai nấy đều vỗ tay hoan hô: có kẻ lại vội vă lấy bút và sổ tay ra xúm quanh gă cán bộ vừa hành tŕnh để xin chép lại bài vọng cổ.
Hôm sau tôi lân la đến làm quen với người cán bộ vùng Tề đă hát bài vọng cổ đêm trước rồi dần dà tôi được biết hắn là đảng viên dự bị ở miền Phúc Thọ, gần thị xă Sơn Tây. Mặt hắn bèn bẹt, đôi mắt hắn híp lại, ti hí mắt lươn, trước đây hắn đă từng làm kép hát và nay làm nghề thợ may. V́ được bảo đảm bởi tư cách đảng viên, hơn thế lại được nhận công tác làm kinh tài trong vùng chiếm đóng nên y vẫn thường xuôi về Hà Nội để đi xem hát cải lương và do đó, căn cứ vào chỉ thị của Đảng, hắn đă đem cái nghề mọn của hắn là nghề hát cải lương để phục vụ đường lối của Đảng trong phong trào hạ bệ Nguyễn Tường Tam.
H́nh ảnh của đêm trăng đó với tên cán bộ kép hát và điệu vọng cổ tuyên truyền của hắn đă gây ra trong trí óc tôi một ấn tượng rất sâu đậm về tính cách kệch cỡm, ngu độn và buồn nôn của những kẻ đă bất chấp lư trí và lương tri của con người để bôi nhọ những người mà chúng coi là địch thủ chỉ v́ không đi chung đường lối, không chịu khuất phục chúng.
Tuy nhiên có một điều khiến tôi không khinh gă cán bộ kép hát mà chỉ thương hại cho hắn là v́ hắn đă không hiểu việc hắn làm, không biết hết những điều hắn nói. Chẳng qua hắn nghêu ngao mấy câu vọng cổ bôi nhọ Nguyễn Tường Tam là v́ hắn muốn tâng công với Đảng. Chứ thực t́nh nếu biết đến nơi đến chốn, có lẽ hắn phải tự thẹn v́ mấy câu hát xuyên tạc một cách vô ư thức trong đêm đó. Tôi biết rơ như thế là v́ trong một đếm trăng suông sau đó, tôi đă cùng hắn và một vài cán bộ học vấn đi dạo chơi ngoài cánh đồng; khi bước lên băi cỏ dịu mượt dưới ánh trăng chính gă cán bộ kép hát kiêm thợ may, trong một phút xúc cảm trước cảnh thiên nhiên đă bất giác ngâm lên mấy câu thơ của Vũ Hoàng Chương trong bài “Dâng t́nh”:

“… Đường xanh bóng trăng
Lửa đào tung bay phấp phới
Giai nhân ôi xin dừng gót lại!”

Tôi đă đoán biết rằng gă có một tâm hồn văn nghệ cho nên sau khi gợi ra cho gă đi sâu vào câu chuyện thơ tôi mới đem những tác phẩm của Tự lực Văn đoàn – nhất là mấy tác phẩm chính của Nhất Linh – ra hỏi ư kiến gă. Th́ quả nhiên gă như xuất thần say sưa, hoa chân múa tay tán thưởng từ nội dung đến văn chương của những tác phẩm như Gánh hàng hoa, Nửa chừng xuân và nhất là Lạnh lùng, Đoạn tuyệt Bướm trắng. Để gă thao thao bất tuyệt một hồi lâu rồi tôi mới hỏi:
“Thế qua tất cả những tiểu thuyết đó của Tự lực Văn đoàn, đặc biệt là của Khái Hưng và Nhất Linh, đồng chí nhận thấy có khuynh hướng ǵ?”
Gă cán bộ tuy cảm thấy nhưng không thể diễn tả hết ra lời được. Thấy thế tôi khơi mào hỏi:
“Ư muốn của Nhất Linh và Khái Hưng là phá bỏ tất cả những cái ǵ lạc hậu, xấu xa, giả dối trong chế độ gia đ́nh và xă hội cũ để tạo lập nên một xă hội mới theo một tinh thần mới trong đó con người được giải phóng và tự do hơn, đồng chí có nghĩ như thế không?”
Gă cán bộ vỗ tay reo lên:
“Phải rồi! Chính tôi cũng nhận thấy như thế nhưng không nói ra được.”
Tôi lại hỏi:
“Theo đồng chí th́ phá bỏ cái cũ để kiến tạo cái mới cho thích hợp với sự tiến bộ của loài người, như thế có phải là cách mạng không?”
Người cán bộ đáp không suy nghĩ:
“Thế đúng là cách mạng chứ!”
Cuối cùng trước khi ra về tôi ghé tai bảo thầm gă cán bộ kép hát:
“Nhất Linh là Nguyễn Tường Tam đấy, đồng chí có biết không?”
Gă lặng người không đáp. Và từ hôm ấy cho đến ngày chia tay, gă trở nên ít nói, thỉnh thoảng chỉ nh́n trộm tôi với tất cả vẻ ngượng ngập trong ánh mắt.

o0o

Câu chuyện trên đây tôi nhớ như mới xảy ra ngày hôm qua. Từ đó đến nay tôi đă được nghe hoặc được đọc khá nhiều những luận điệu chê bai, chỉ trích hoặc bôi nhọ Nguyễn Tường Tam phát ra từ miệng những kẻ không phải là đảng viên cộng sản mà cũng chẳng phải là kép hát. Nhưng nếu so sánh với gă cán bộ vùng Tề năm nọ th́ những kẻ sau này c̣n đáng phỉ nhổ hơn nhiều: người công nhân yêu chuộng văn nghệ vùng Phúc Thọ có lương tri v́ đă biết tỏ ra hổ thẹn khi thấy là ḿnh lầm trong khi có biết bao nhiêu kẻ khác – tuy vẫn tự vỗ ngực là chiến sĩ quốc gia, dân tộc v́ tự do mà chống cộng – nhưng chúng đă không từ một hành vi xảo quỷ nào, không kiêng một lời lẽ hạ tiện nào để bôi nhọ nhằm hạ uy tín của một văn hào, một chiến sĩ đă dám hy sinh cả cuộc đời ḿnh cho lư tưởng duy nhất là đem lại tự do và hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam.
Từ cuối năm 1949 cho đến hết năm 1950, với tư cách là một cán bộ huấn luyện công tác địch vận, tôi đă có cơ hội được đặt chân đến rất nhiều miền quê ở trung châu và thượng du Bắc Việt. Nhờ đó chính tôi đă được mắt thấy tai nghe muôn vàn thảm cảnh của đồng bào, những thảm cảnh do chiến tranh gây nên cũng có mà do chính quyền Cộng sản tạo ra cũng có. Sau khi lệnh tổng đảng viên nhân lực vật lực và tài lực được ban bố và thi hành th́ nhân dân – nhất là nông dân – hầu như tuyệt cả đường sống, nhất là những nông dân sống sát miền địch chiếm đóng. Vào một chiều đông năm 1949, nhân một chuyến đi công tác tôi ghé qua một căn lều của một gia đ́nh nông dân dựng tạm lên dưới chân một ngọn đồi hẻo lánh thuộc một làng ven sông Hồng gần Hưng Hoá. Cảnh sống xơ sác, kinh hoàng của gia đ́nh này cũng là cảnh sống đày đoạ vất vưởng của đa số nông dân miền Bắc hồi đó. Thế rồi khi chia tay, người nông dân bùi ngùi đến rơi lệ mà bảo với tôi rằng:
“Các ông ở Hà Nội th́ mai kia c̣n có Hà Nội mà về chứ như chúng cháu đây th́ không biết về đâu mà sống được?”
Sau đó có những đêm dài trằn trọc tôi nhớ lại lời của Ninh đă nói với tôi trước mặt Khái Hưng trên căn gác 80 Quan Thánh vào một buổi sáng mùa xuân năm Bính Tuất:
“Nếu cuộc tranh đấu đi đến nội chiến th́ máu đồng bào và cán bộ ta sẽ phải chảy rất nhiều, hậu quả sẽ tai hại không biết thế nào mà lường được…”.
Lời nói đó bây giờ đây tôi mới nhận thức được cái ư nghĩa chính xác và cao cả của nó. Th́ ra tấm ḷng yêu nước thương đồng bào đă là động cơ duy nhất thúc đẩy Nguyễn Tường Tam vào con đường đấu tranh cách mạng: không lúc nào Anh để cho tinh thần đó bị xóa nhoà bởi những thủ đoạn chính trị giai đoạn. Trong Anh không thể có sự phân biệt giữa phương tiện và cứu cánh: bất cứ thủ đoạn nào, bất cứ phương tiện nao dù cho nó mang lại thắng lợi cho cá nhân hoặc đoàn thể mà đi ngược lại với quyền lợi và hạnh phúc của dân tộc cũng đều bị Anh gạt bỏ. Rơ rệt là trong con người cách mạng Nguyễn Tường Tam người ta vẫn nhận thấy cốt cách, tâm năo của con người văn nghệ Nhất Linh.
Trở lại với hiện t́nh đấu tranh của bản thân ḿnh, tôi không lúc nào quên lời nói của người tài liệu và lời than thở nghẹn ngào qua ánh lệ của người nông dân miền Hưng Hoá rồi tôi tự hỏi không biết có nên cứ bám măi vào cái danh nghĩa kháng chiến hư huyễn này không? Và bên kia vành đai trắng, trong miền chiếm đóng, có ai là người c̣n nghĩ đến cái thảm cảnh của người dân ngoài này đeo nặng trên tâm hồn và thể xác cái gông cùm áp bức nô lệ được tô vẽ bằng danh nghĩa kháng chiến chăng?
Tâm sự này có lần tôi đă thổ lộ ra bằng những lời thơ qua những cuộc rượu thâu đêm trong một quán vắng bên sông Đáy kế cận vùng địch chiếm:

Đêm nay súng rộn giang biên
Lờ mờ binh hoả ḱa miền Thăng Long
Không sang chẳng tại cách sông
Đây chưa là bến đây không có bờ
Đêm nay có một con đ̣
Bơ vơ bến lạ, quanh co sông người.

Rồi, trong những lúc canh tà bóng xế ngồi một ḿnh trên căn nhà sàn giữa xóm Mường Bá Trại tôi dở cuốn sổ tay ra đọc lại những lời lẽ mà Nguyễn Tường Tam từ bên kia biên giới đă gửi về cho các đồng chí trong nước hồi tháng 1 năm 1945, trước ngày Nhật đảo chính Pháp đúng 2 tháng:

Cùng hết thảy các bạn chiến đấu,
Sau mấy năm cách mặt, đến giờ mới có cơ hội gởi lời thăm hết thảy các bạn xa gần, già trẻ, biết hay không biết nhưng đă cùng tôi trong bấy lâu chiến đấu dưới một lá cờ, phụng sự một lư tưởng: cứu nước và duy tŕ ṇi giống, đưa dân tộc đến chỗ vinh quang. Thời giờ thật là khẩn cấp, chiến tranh biên giới sắp đến hồi quyết định sự hưng vong của ṇi giống Đại Việt ta là ở lúc này đây. Mong anh em ra tâm phấn đấu, đếm hết sức lực ra để làm cho Đảng chúng ta mạnh mẽ gấp mười trước, có thể đối phó với thời cuộc, đem lại cho nước ta sự độc lập ao ước bao lâu. Ở trong nước hy vọng đặt cả vào anh em. Ở ngoài này chúng tôi xin nỗ lực cho khỏi phụ ḷng anh mong mỏi. Ở ngoài, ở trong cùng hết sức để rồi có ngày kia bắt tay nhau trên đất nước nhà trong cái không khí tưng bừng của ngày Quốc hội: ngày đầu tiên của nước Đại Việt độc lập.
Vân Nam, ngày 17-1-1945
Tường Tam
 

Niềm hy vọng mănh liệt chứa chan của Nguyễn Tường Tam bốc toả lên qua mấy lời hiệu triệu trên đây, theo tôi nghĩ, có thể được ghi lại như một sức khoẻ lịch sử tiêu biểu cho tinh thần ham chuộng Tự Do của thực tế dân tộc trong một giai đoạn đầy hào hứng và phấn khởi ít thấy trong lịch sử. Nhưng than ôi! Khát vọng đó của Nguyễn Tường Tam cũng như của cả một dân tộc đă bị cộng sản bóp chết ngay từ chớm nở. Và, nếu những lănh tụ các lực lượng quốc gia được thấy tận mắt cái cảnh thảm khốc ngày nay mà dân tộc đang phải chịu th́ chắc chắn là vào hồi đầu năm 1946 họ đă ít dè dặt hơn trước viễn tượng một cuộc nội chiến.
      Trước kia tôi đă cương ngạnh phản đối mọi thoả hiệp với cộng sản th́ giờ đây, sau bao kinh nghiệm bản thân, tôi lại càng kiên quyết cho rằng lư tưởng Tự do Độc lập và Hạnh phúc Dân tộc không phải là hoàn toàn chỉ nhờ vào thiện chí và quyết tâm mà đủ: nếu chỉ v́ sợ phương hại đến đoàn kết mà chịu nhân nhượng cả với bọn gian tham quỷ quyệt độc ác bạo tàn th́ c̣n tệ hại hơn cả sự đầu hàng kẻ địch. Qua ngót một thế kỷ Pháp thuộc chúng ta há chẳng nhận thấy rằng cường hào, quan lại, phong kiến c̣n đáng sợ hơn Thực dân và từ sau ngày cộng sản nắm được chính quyền th́ Cộng sản lại c̣n đáng sợ hơn quan lại, phong kiến. Muốn có một đĩa trứng tráng ngon lành tất nhiên phải đập vỡ quả trứng tṛn đẹp; bởi vậy trong thâm tâm tôi vẫn hy vọng rằng rồi ra thực tế sẽ tài bồi cho Mặt trận Thống nhất Toàn lực của Nguyễn Tường Tam thêm nhiều kinh nghiệm tranh đấu. Tôi tin tưởng ở sự thành công của đoàn thể Đại Việt Dân Chính v́ ngay trong hàng ngũ kháng chiến lúc bấy giờ hiện c̣n có biết bao nhiêu phần tử trí thức đă – hoặc nhiều hoặc ít, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp – chịu sự chi phối của đoàn thể đó, tỉ dụ như Dương Đức Hiền hồi đó là lănh tụ Đảng Dân chủ dưới sự kiềm chế của Đảng Cộng sản Đông Dương, trước ngày 19-8-1945 chính là Trưởng ban Thanh niên Tiền tuyến của Đại Việt Dân Chính. Tất cả những người bạn đồng cảnh đó của tôi trong kháng chiến chắc cũng phải có những giờ phút sống tâm trạng khắc khoải của một kẻ lạc ngũ như tôi. Mấy năm sau, khi đă rời bỏ hàng ngũ kháng chiến để trở về thành, tôi mới được anh bạn Lư Thắng đưa cho xem một bức thư – đúng hơn là một mẩu giấy chỉ bằng bàn tay – do chính Nguyễn Tường Tam viết cho Dương Đức Hiền nhưng tên người nhận chỉ được viết tắt là H…, nguyên văn như sau:


Anh H…
Từ lúc chúng ḿnh đứng trước lá cờ của Đảng, lúc nào tôi cũng tin tưởng ở anh và chứa chan hy vọng ở anh, một chiến đấu viên có thể làm vinh dự cho Đảng, cho nước. Sau một hồi yên lặng bắt buộc v́ t́nh thế, lại mong anh gia nhập hàng ngũ để cùng anh em khác chiến đấu, để nâng dắt các anh em khác, gây cho Đảng Đại Việt ta một sức cứng như thép, đủ đối phó với thời cuộc rất khẩn cấp hiện nay. Mọi việc anh thương thảo với R… rồi hành động ngay đi. Tôi ở ngoài này đợi tin anh và tôi chắc không bao lâu sẽ vui mừng, thấy anh, trước cũng như sau, bao giờ cũng là chiến đấu viên trung thành của Đảng và dự một phần vào công việc tăng thêm sức cho Đảng, đă quyết tâm hy sinh, đă biết lư tưởng của chúng ta là đúng th́ hăng hái theo cho đến cùng, đến khi cứu được ṇi giống ra khỏi vùng áp bức nô lệ.
Bạn chiến đấu của anh
Tường Tam


      Mấy ḍng chữ có quan hệ lịch sử này cho tới nay vẫn chưa đến tay người nhận. Và, trong giờ phút mà tôi viết ra mấy lời hoài niệm này, tác giả bức thư – Nguyễn Tường Tam – cùng người nhận thư – Dương Đức Hiền – đều đă nằm sâu dưới đáy mộ, một ở miền Nam và một ở miền Bắc. Câu chuyện thương tâm trên đây có thể co là một điển h́nh cho cả một thời đại bi đát mà dân tộc ta đă trải qua trong mười lăm năm gần đây: có những người bạn đồng chí cùng nhau nguyện thề dưới một lá cờ để phụng sự một lư tưởng mà rồi đến nước phải sống xa nhau như âm dương cách trở, những ḍng chữ chuyển đạt tâm tư được gửi đi mà không đến tay người nhận và rút cục mỗi người phải nhắm mắt ĺa đời ở một phương trời, mang theo cả tâm sự ngàn đời xuống đáy mồ khép kín.
Người xưa có câu “Cái quan định luận”, nghĩa là sau khi đậy nắp quan tài mới định rơ được giá trị chân xác của cuộc đời một người. Nhưng trong trường hợp Nguyễn Tường Tam và Dương Đức Hiền – cũng như trường hợp của trăm ngàn chiến sĩ vô danh khác đă bỏ ḿnh trong tủi hận v́ chính nghĩa dân tộc trong khoảng mười lăm năm nay, - dù cho nắp quan tài đă đóng lại và dù cho cỏ xanh đă phủ kín mộ phần, đă chắc ǵ thế nhân có thể định luận cho đúng mức được?

o0o

Kẻ viết mấy hàng hoài niệm này, may mắn đă không phải ở vào hoàn cảnh của Dương Đức Hiền. Vào khoảng đầu năm 1951, khi tôi đă rời bỏ hàng ngũ kháng chiến để hồi cư về Hà Nội được mấy tháng th́ thấy các báo đăng tin Nguyễn Tường Tam cũng vừa từ Hương Cảng về nước. Mặc dầu đang ở vào tâm trạng ngỡ ngàng của một kẻ “neo thuyền bến lạ” sau khi đặt chân vào vùng chiếm đóng được mệnh danh là vùng Quốc gia, tôi cũng không nén nỗi vui mừng v́ thực tâm tôi đặt rất nhiều hy vọng vào sự trở về của Nguyễn Tường Tam: t́nh thế lúc bấy giờ, về đối nội cũng như đối ngoại, đă lâm vào một trạng thái vô cùng phức tạp, khó xử chứ không c̣n giản dị như hồi đầu năm 1945 nữa.
      Hồi đó Pháp đang dốc toàn lực sang Đông Dương để cố thanh toán cuộc chiến tranh ở Việt Nam, đằng sau Pháp lại có cả Hoa Kỳ và Anh vẫn nỗ lực viện trợ về mọi mặt để Pháp lại được vững chân trên bán đảo Đông Dương: giải pháp Bảo Đại chỉ là một nước sơn rất mỏng không đủ che mặt bất cứ người Việt Nam yêu nước nào. Trong khi đó cộng sản Trung Hoa đă thôn tính trọn lục địa và c̣n thừa sức để vơ trang cho hàng sư đoàn Vệ Quốc quân Việt Nam ngày đêm ùn ùn kéo qua biên giới với chiếc đầu trọc lốc và hai bàn tay không để trở về các mặt trận với súng ống tối tân của Tiệp Khắc và Trung cộng. Ngày 6 tháng 1 năm 1950, trước ngày tôi trốn về thành nửa năm, đúng vào lễ kỷ niệm ngày thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, tôi đă được nghe một cán bộ Đảng công khai tuyên bố rằng cuộc tổng phản công tất nhiên sẽ phải đến v́ một là nước bạn Trung Quốc sẽ dốc toàn lực để giúp chúng ta giải quyết chiến trường Việt Nam, hai là sẽ mở thêm trận tuyến ở một nơi khác để chia sẻ lực lượng của phe Đế quốc: mặt trận thứ hai đó có thể là Triều Tiên.
Bắt đầu trốn về Hà Nội ngày 19 tháng 5 năm 1950 th́ sang tháng 6, tôi bàng hoàng nghe tin cuộc chiến tranh Cao Ly bùng nổ. Trước đó tôi không tin vào lời gă cán bộ đảng viên và cho đó chỉ là một luận điệu tuyên truyền hứa hẹn hăo để khích lệ dân chúng trong nỗ lực đóng góp cho cuộc tổng phản công. Nhưng giờ đây, lời nói đă trở thành sự thực và cái thế nước lúc bấy giờ có thể tóm tắt như sau:
      Hai huy hoàng quân sự và chính trị tương tranh trên dải đất Việt Nam là cộng sản và thực dân: lực lượng Cộng sản Việt Nam có Trung Cộng trực tiếp giúp đỡ là một lực lượng đang lớn mạnh lại được vơ trang bằng chính nghĩa kháng chiến cho nên mặc dầu đă được Mỹ và các nước Đồng minh Tây phương giúp dập dủ đường, Pháp không thể nào giải quyết được vấn đề Việt Nam theo ư muốn bằng một giải pháp chính trị hay một cuộc tấn công quân sự. Tuy nhiên người ta không thể đoán được rằng Pháp sẽ chấm dứt cuộc “sa lầy” ở Đông Dương bằng phương thức nào. Trước thực trạng đó, những người Việt Nam thật ḷng yêu nước khó có thể chấp nhận được một sự hợp tác với thứ chính quyền hữu danh vô thực được mệnh danh là “giải pháp Bảo Đại”, bởi lẽ cái chính quyền quốc gia hồi đó, qua mấy nội các kế tiếp nhau, trong thực chất chỉ là những triều đ́nh tạm bợ gồm toàn những ông tri huyện và đốc phủ cũ, từ xưa vốn chỉ quen với nhiệm vụ thừa hành chứ không hề biết đến chính trị và cách mạng nào hết. Thật đúng với lời một người pháp thời ấy đă định nghĩa triều đ́nh Bảo Đại là triều đ́nh của những “tri huyện c̣m” (une cour để petits tri huyện).
Chính trong trạng huống bi đát đó mà tôi gặp Nguyễn Tường Tam lần thứ nh́ trong đời: gặp trong một bữa tiệc do ông Giám đốc Thông tin Nguyễn Trọng Trạc thết tại tư thất đường Quan Thánh. Thời ấy những nhà cách mạng hải ngoại trở về đă là những món hàng được giá: người ta muốn có những quân cờ mới, những tài tử mới để mong gợi hứng cho dư luận đă quá chán chường v́ không khí tẻ nhạt của sân khấu chính trị trong vùng chiếm đóng. Chính v́ lư do đó mà đă có những “cách mạng gia” bất đắc dĩ và cũng bất đắc dĩ phải sống cuộc đời lưu vong trong ít năm khi trở về đă được cả một bầy tay em đầu cơ xoắn lấy, bao vây thật chặt để dùng làm “đầu tàu”, hoặc một món hàng tung ra thị trường chính trị khi cần đến. Bởi vậy, tuy ngồi thiết bị bàn tiệc mà ḷng tôi lo ngay ngáy, chỉ sợ Nguyễn Tường Tam cũng sẽ bị lợi dụng, cũng sẽ “điểm mại” cả cuộc đời cách mạng của Anh để lấy một chức Bộ trưởng hoặc Tổng trưởng như sau đó một vài người đă làm. Nhưng may thay, Anh đă tuyên bố rơ rệt và cương quyết ngay trong bữa tiệc với các người thân cũng như trước đó đă tuyên bố với báo chí rằng Anh sẽ không hoạt động chính trị và sẽ quay về với hoạt động văn hoá.
      Lời tuyên bố này đă khiến nhiều người hoặc ngạc nhiên hoặc chán nản nhưng riêng tôi, tôi nhận thấy như thế là rất phải. Nguyễn Tường Tam không hề bao giờ làm chính trị và không thể nào làm chính trị được: ANH CHỈ LÀ CON NGƯỜI CỦA VEN, CON NGƯỜI CỦA CÁCH MẠNG. Văn nghệ và Cách mạng có những tương quan rất chặt chẽ như môi với răng nhưng Cách mạng không thể là Chính trị. Cho nên lúc bấy giờ tôi tin tưởng rằng Nguyễn Tường Tam không làm chính trị nhưng sẽ vẫn làm cách mạng.
Cho đến lúc từ giă nhau sau bữa tiệc, Nguyễn Tường Tam vẫn không nhận ra tôi là một đồng chí cũ của Anh; c̣n tôi, tôi vẫn yên lặng theo dơi hành vi của người lănh tụ.

o0o

Sau khi di cư vào Nam tôi cũng không hề t́m gặp lại Nguyễn Tường Tam mặc dầu giữa chúng tôi vẫn có những sự tương quan qua trung gian của người khác. Cho đến mùa đông năm 1957 tôi đă theo chân một vài người bạn văn t́m đến thăm Nguyễn Tường Tam tại một biệt thự ở Đà Lạt vào đúng đêm Giáng sinh: Anh nói chuyện về phong lan cho chúng tôi nghe trong một gian pḥng rộng có bày đầy những chậu lan quư. Tôi vốn tính không ưa những tṛ tỉ mỉ như chơi hoa và nuôi chim, có lẽ v́ cái óc thực tế tạo ra do cuộc đời nghèo khổ của tôi từ tấm bé và do cả những tao ngộ bi đát trong những năm hoạt động cách mạng và kháng chiến. Hơn thế, đối với tôi lan là một thứ hoa vương giả, phải mất nhiều công phu t́m kiếm, vun tưới, chăm sóc th́ mới đâm hoa được. Cho nên trong buổi tối đó tôi đă không chú ư lắm vào câu chuyện phong lan của Anh. Và tôi lại lấy làm lạ là sao một người như Anh mà lại đi tiêu phí thời giờ vào một thú chơi vương giả đó. Nhưng sau này tôi mới biết là tôi đă xét đoán một cách vội vă, nông nổi.
      Sang năm 1958, Nguyễn Tường Tam từ giă toà biệt thự hoang lạnh trên Đà Lạt và tạm đoạn tuyệt với cái thú chơi lan để về Sài G̣n cùng một số văn hữu bắt tay vào hoạt động văn nghệ. Do lời đề nghị khẩn thiết của Đỗ Đức Thu và tôi, Anh nhận làm Cố vấn cho Trung tâm Văn Bút Quốc tế tại Việt Nam vừa được thành lập và công nhận trong hội nghị quốc tế tại Đông Kinh vào tháng 9 năm 1957. Đồng thời Anh cũng sửa soạn cho ra đời tạp chí Văn hoá ngày nay với sự cộng tác của một nhóm văn hữu trong nhóm Phượng Giang. Và từ đó, Nguyễn Tường Tam cùng tôi đă trở thành đôi bạn văn khá mật thiết: trong suốt mấy năm trời không mấy ngày là chúng tôi không gặp nhau nhưng tuyệt nhiên tôi vẫn không để Anh hay biết việc tôi đă từng hoạt động cách mạng cùng trong một đoàn thể với Anh trước đây.
      Kể ra th́ cũng khá kỳ thú! Tôi bắt đầu say mê Nhất Linh qua văn nghệ, kế đó tôi gặp Nguyễn Tường Tam trên con đường tranh đấu cách mạng để rồi cuối cùng tôi lại trở thành người bạn của Anh trong văn nghệ.
C̣n nhớ hồi tôi c̣n ở trên một căn gác hẹp trong xóm Vườn Chuối, Anh cùng Đỗ Đức Thu t́m quanh co suốt cả buổi sau cùng lần ṃ đến được chỗ tôi ngụ th́ tôi lại đi vắng. Hôm sau gặp tôi, anh kể lại nỗi khổ đi t́m nhà trong khu Bàn Cờ rồi cười mà bảo tôi:
“Để cho bạn hữu dễ t́m thiết tưởng anh nên trưng lên trước căn gác một tấm biển để bốn chữ “Quân tử cư chi” như thế có lẽ tiện hơn.”
Tôi cũng cười đáp:
“Tôi sợ nếu làm thế th́ các anh lại càng khó t́m hơn v́ trong thời đại này của chính ḿnh một thằng ăn cắp cũng vẫn dám tự xưng là quân tử với tất cả những biểu tượng kênh kiệu th́ mấy chữ trong Luận ngữ có nghĩa ǵ đâu, nhất là tôi lại ở ngay cạnh chợ Vườn Chuối lắm kẻ cắp lắm.”
      Sau một thời gian ngắn tạm trú tại căn pḥng tồi tàn dành cho bồi bếp trong toà biệt thự của một người thân đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Tường Tam trở về với gia đ́nh tại căn gác ngay giữa chợ An Đông. Thật là một sự t́nh cờ có lẽ đă khiến xui Anh cũng như tôi, hai người vốn ưa tĩnh mịch mà lại cùng phải ở vào giữa cảnh ồn ào của hai khu chợ náo nhiệt và bẩn thỉu vào bậc nhất của thành phố Sài G̣n. Nhưng có điều khác với câu ngạn ngữ Tàu “Bần cư trung thị vô nhân vấn”, từ sau ngày anh có ngụ sở nhất định rồi th́ anh em văn hữu cũng dễ dàng t́m gặp.
Ở gần Nguyễn Tường Tam lâu ngày, dần dà tôi mới nhận thấy tất cả những điểm đáng mến trong con người của Anh. Cuộc sống của anh rất giản dị về mặt vật chất và rất thuần phác cởi mở về mặt tinh thần. Khi nói chuyện tiếng nói của anh chỉ vừa đủ nghe và có những câu trào phúng rất ư nhị, anh nói ra bằng một giọng điệu và vẻ mặt thản nhiên khiến người kém thông minh không thể nhận ngay ra được là một câu khôi hài. C̣n nhớ trong một cuộc họp mặt với một nhóm văn hữu tại trụ sở Trung tâm Văn Bút ở đường Phan Đ́nh Phùng nhân bàn về kỹ thuật sân khấu của hai môn chèo và kịch, Anh có nói ra một câu khôi hài khiến mọi người phải ôm bụng cười, trong khi đó mặt Anh vẫn thản nhiên như không.
      Vũ Khắc Khoan hỏi Vũ Huy Chấn về nghệ thuật xếp đặt sân khấu trong một buổi hát chèo:
“Bây giờ không nói đến cách trang trí trong một rạp, tôi chỉ cần hỏi xem trong một tối hát chèo ở sân đ́nh hoặc trên một mô đất dùng làm sân khấu chẳng hạn th́ có cái ǵ ngăn cách pḥng hoá trang của đào kép với sân khấu không? Tôi nghĩ ít ra cũng phải có một manh chiếu hay một tấm phên chứ. Nếu không th́ tài tử ở đâu mà chui ra?”
Sau câu hỏi này Vũ Huy Chấn chưa kịp đáp th́ Nguyễn Tường Tam đă nghiêm mặt giơ tay nói một cách trịnh trọng:
“Ấy chết! Xin các anh giữ mồm giữ miệng: ở đây không nói chuyện chính trị!”
Tôi nghe câu ấy không thể nhịn được cười phá ra! Chả là hồi đó mấy ông bà dân biểu vừa tranh luận rất gay go tại Quốc hội về vấn đề “nam nữ b́nh quyền” và một bà dân biểu đă trắng trợn nói ra trên diễn dàn Quốc hội câu hỏi bất hủ: “Nếu không có đàn bà th́ đàn ông ở đâu mà chui ra?”, câu này đă được đăng trên khắp các báo. Mấy tiếng “ở đâu mà chui ra” của Vũ Khắc Khoan vô t́nh đă trở thành đề tài cho lời nói khôi hài của Anh.
      Trong mấy năm liền, có những buổi chiều Anh ngồi đeo sau chiếc xe Lambretta của tôi để dạo chơi khắp nơi trong thành phố: chúng tôi có thói quen vừa ngồi trên xe như vậy vừa nói chuyện chứ không chịu ghé vào nhà ai cả. Thấy thế có những văn hữu sợ Anh tuổi già đa bệnh ngồi xe như thế sẽ dễ mỏi và nguy hiểm nên ngỏ ư muốn nhường xe hơi cho Anh dùng nhưng Anh một mực từ chối, cho rằng ngồi sau x́-cút-tơ thoáng mát hơn. Bởi thế một văn hữu đă gọi Anh là “người ngồi sau xe x́-cút-tơ”. Ngồi đeo sau xe “x́-cút-tơ” do tôi lái, Anh thường nghiêm khắc chê trách tôi hai tật: một là đi quá nhanh và hai là không chú ư đến bên tay trái mỗi khi qua ngă tư mà chỉ chú tâm nhường tay phải. Tôi tự bào chữa:
“Chỉ cần chú trọng đến những xe bên tay phải v́ họ có quyền ưu tiên. Đến như các xe cộ bên tay trái th́ họ phải nhường ḿnh chứ.”
Anh cười khẩy đáp:
Anh tin tưởng như thế th́ có ngày hai chúng ḿnh vào nhà thương mất thôi v́ trong đời chính những kẻ đáng lư ra không có quyền hại ḿnh chúng mới hay gây hại cho ḿnh.
Giờ đây Nguyễn Tường Tam không c̣n nữa! Cái chết của Anh sẽ có Lịch sử ghi lại hậu thế phê phán cho nên ở đây tôi chỉ muốn ghi lại những kỷ niệm cùng với những cảm xúc chân thành của cá nhân tôi với niềm hy vọng nói lên tiếng nói của một nhân chứng. Những lời ai điếu Nguyễn Tường Tam trước quan tài trong giờ mai táng, hoặc do chiến hữu, hoặc do văn hữu, hoặc do thanh niên và sinh viên lớp trẻ đă thốt ra đă đủ là những tài liệu chứng minh giá trị của một cái chết.
Mấy tuần gần đây, sau ngày đi theo linh cữu anh đến nơi an nghỉ cuối cùng, có những buổi sáng bừng mắt dậy trước những luồng nắng sớm chan hoà qua song cửa, tôi giật ḿnh tưởng tượng ra vẻ mặt mệt mỏi với đôi mắt sâu thẳm trên đôi vai gầy guộc với thân h́nh dong dỏng cao của Anh hiện ra qua khung cửa gỗ. Trong mấy năm qua Anh thường đến chơi thăm tôi trong những giờ rất sớm vào buổi sáng; có khi tôi hăy c̣n mê man trong giấc ngủ, bừng mắt dậy đă thấy Anh đứng ngay trên đầu đi-văng tôi nằm.
      Thế rồi khi chợt nhớ ra rằng Anh đă chết tôi không khỏi bàng hoàng tự hỏi không biết rằng thực Anh đă chết hay là Anh chỉ mới bắt đầu đi vào một Cơi Sống khác, cực lạc và bất diệt khác hẳn với cái thế giới Ta Bà đầy khổ năo bất công này?
Và rồi tôi không khỏi nhớ lại những lời của Lỗ Tấn mà tôi xin dùng làm đoạn kết cho mấy ḍng tâm sự hoài niệm này:
"Tôi thường thấy rằng giữa chính trị và văn nghệ vẫn có sự xung đột. Văn nghệ cùng với Cách mạng vốn dĩ không có ǵ tương phản nhau, trái lại giữa hai cái đó vẫn có sự đồng nhất về điểm bằng ḷng ở hiện trạng.
Duy có chính trị là muốn duy tŕ hiện trạng nên chính trị cùng với văn nghệ (cái thứ văn nghệ không lúc nào thấy yên ở hiện trạng) tự nhiên không cùng một phương hướng là do đó…
Loài người vốn rất thích xem kịch cho nên các nhà văn nghệ tự dấn thân ra làm kịch cho người ta xem. Hoặc họ bị trói tay, chặt đầu dưới trướng; hoặc họ phải chết gục dưới chân tường, đó đều là để làm cho Nhân loại náo nhiệt lên một chút mà thôi. Như ở Thượng Hải lính cảnh sát dùng dùi cui đánh người, ai nấy đều quay tṛn chung quanh để xem. Tuy chính họ không ưa cái việc đánh người như thế nhưng khi xem người khác bị đánh đập, áp bức, con người cũng sớm hiểu được đôi chút cái thân phận của ḿnh”.

      Cho nên cùng với cái chết của Nguyễn Tường Tam, thế nhân chúng ta đă hơn một lần được xem những bậc tiên giác dùng chính thân họ ra để giác ngộ người đời. Nhưng người đời đă thực sự được giác ngộ chưa?

*Sài G̣n, một ngày mưa tháng Năm năm Quư Măo (1963)

 

                                                      Trích từ 

                                         “Hoài niệm Nhất Linh” của Vũ Hoàng Chương

                                           http://elib.quancoconline.com/stories/

               

o0o

 

Nhất Linh, Gịng Sông Thanh Thủy                                       

    Thy Khuê

 

       Nhất Linh bắt đầu viết Ḍng Sông Thanh Thủy ngày 28/11/1960. Cuốn đầu, Ba Người Bộ Hành, 248 trang, viết trong ṿng một tháng. Hai tập sau chắc cũng viết rất nhanh bởi toàn bộ ba cuốn, hơn 600 trang, được nhà Đời Nay in năm 1961, hai năm trước khi Nhất Linh quyết định tự chấm dứt đời ḿnh.

 Tại sao lại có Ḍng Sông Thanh Thủy? Một bộ tiểu thuyết thoát ra ngoài cơi viết của Nhất Linh, một người mà cho đến năm 1960 vẫn đặt vấn đề chính trị ra ngoài văn học? Phải chăng Nhất Linh muốn để lại một tự phán của nhà văn Nhất Linh về nhà chính trị Nguyễn Tường Tam, và qua đó là bản án của văn học đối với cách mạng?
 Ḍng Sông Thanh Thủy là một trường giang tiểu thuyết, gồm: Ba Người Bộ Hành, Chi Bộ Hai Người Vọng Quốc. Ḍng Sông Thanh Thủy viết về một thời kỳ cách mạng Việt Nam tại Trung Hoa, thời kỳ 44-45, trên trục Côn Minh, Khai Viễn, Mông Tự, Hà Giang mà hoạt động chính trị của Việt Minh và Việt Nam Quốc Dân Đảng thời đó, ở vào thế phải diệt lẫn nhau bằng những phương tiện ám sát, thủ tiêu tàn bạo nhất. Hai nhân vật chính trong truyện: Ngọc, cán bộ Việt Quốc, Thanh, cán bộ Việt Minh, đều biết họ có nhiệm vụ phải giết người kia nhưng đồng thời họ cũng yêu nhau bằng một t́nh yêu tuyệt đối: t́nh yêu đến chết.

 Về văn phong và nghệ thuật, Ḍng Sông Thanh Thủy không phải là tác phẩm nổi bật nhưng là cuốn sách mạnh nhất về tư tưởng và chính trị của Nhất Linh, ông điều tra về con người, về các guồng máy chỉ đạo con người, về tội ác, về các sự nhân danh lư tưởng, tổ quốc dẫn đến tội ác, về chỗ đứng của t́nh yêu, bên cạnh tội ác. Tóm lại là sự sa đọa của con người trong các guồng máy cách mệnh, Việt Quốc và Việt Minh nói riêng, và qua đó là sự sa đọa của con người trong các guồng máy cách mạng nói chung.

 Ḍng Sông Thanh Thủy không phải là cuốn tiểu thuyết chống Cộng sản, bênh Việt Nam Quốc Dân Đảng, ở đây Nhất Linh đứng ngoài địa vị đảng trưởng, ông dùng địa vị nhà văn để xét về những hành động tàn bạo của những con người bẩm sinh hiền lành, có ḷng nhân ái, nhưng khi đă bị rơi vào guồng máy cách mạng (như những đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng hay Việt Minh), có thể trở thành những kẻ sát nhân lạnh lùng, không một chút rùn tay, chùn bước. Ḍng Sông Thanh Thủy là tác phẩm phản đề, phản lại những mẫu người cách mệnh trước, như Dũng, như Trúc v.v..., những nhân vật lăng mạn đi làm cách mạng mà không nhúng tay vào tội ác. Với Ḍng Sông Thanh Thủy, Nhất Linh xác định: cách mạng và tội ác đi đôi với nhau, không thể khác. Và trong Ḍng Sông Thanh Thủy, Nhất Linh nhà văn, kết án Nguyễn Tường Tam nhà cách mạng, để đưa ra một thực tại thứ nh́: cái đẹp trong văn chương và ư nghĩa nhân bản của văn học sẽ c̣n tồn tại lâu dài, như những câu thơ của Tô Đông Pha vẫn sống măi măi trong ḷng người, trong khi những Chu Du, Tào Tháo ... đều đă trôi vào quên lăng. Chứng cớ là 40 năm trôi qua, Nhất Linh nhà văn vẫn c̣n tồn tại, trong khi nhà cách mệnh Nguyễn Tường Tam đă đi vào dĩ văng của lịch sử. Đó là ư nghĩa sâu xa của tác phẩm.

o0o

  Ḍng Sông Thanh Thủy được cấu trúc như một tiểu thuyết trinh thám mà các đối thủ ŕnh t́m chỗ hở của nhau để ra tay, lồng trong không khí toàn thể là sự nghi ngờ, một nỗi nghi ngờ bệnh hoạn: không biết đối phương là ai? Là gián điệp một chiều hay hai chiều? Kẻ ḿnh sắp giết có phải là nội giám của phe địch hay oan? Hay chính ḿnh là kẻ sẽ bị phe địch giết trước? Ba Người Bộ Hành là sự ŕnh rập tay ba giữa Ngọc, Tứ và Nghệ. Chi Bộ Hai Người đối chất, ḍ thám giữa Thanh và Ngọc, và Vọng Quốc theo dơi đường về cơi chết của hai người.

Những nhân vật chính (cán bộ Việt Quốc và Việt Minh) xuất thân ở những môi trường khác nhau, làm cách mệnh v́ t́nh cờ hơn là v́ lư tưởng.
 Ngọc (Việt Quốc) đang đi học, v́ nhà sa sút nên phải bỏ dở để học nghề đan ren ở làng bên cạnh. Ngọc yêu Thúy, con ông chủ. Thúy mất v́ ho lao. Đang bàng hoàng v́ cái chết của Thúy, Ngọc được Lê, anh ruột Thúy dẫn vào cách mạng, trở nên một cán bộ chuyên nghiệp, giữ việc giao liên và thủ tiêu những phần tử Việt Minh. Thanh (Việt Minh) được lệnh quyến rũ Ngọc, trà trộn vào hàng ngũ Việt Quốc ở Vân Nam và Hà Giang để triệt hạ toàn bộ. Thanh thuộc lớp người trưởng giả, con nhà giàu, có học, lấy chồng nhưng người chồng chơi bời, tiêu hết tiền hồi môn của vợ, hai người ly dị, Thanh gặp người t́nh thứ nh́, lại bị lừa lần nữa, chán nản sự đời, gia nhập Việt Minh.

 Những nhân vật khác cũng theo cách mệnh v́ những lư do cá nhân hơn là v́ lư tưởng, như Nam, trước làm y tá, v́ nhà sa sút nên phải lấy một người chồng Tàu, rồi theo  chồng sang Văn Sơn; chồng chết, ở hẳn lại Vân Nam, hành nghề thầy thuốc, đỡ đẻ giúp người, gia nhập Việt Quốc, thi hành các vụ thủ tiêu. Nam, dưới mắt Ngọc, "nàng là người rất hiền lành thế mà bây giờ nàng cũng giết người không khác ǵ chàng" (Ba Người Bộ Hành, trang 110). Về việc Nam thủ tiêu Vương Đức, một cán bộ Việt Minh, Ngọc nghĩ: "chàng chưa hiểu được tại sao một người đàn bà nhu ḿ như Nam lại có thể giết người, mà lại tự ư giết một cách độc ác như thế, chàng thốt nhớ lại câu Thanh nói: "Bị cái guồng máy nó lôi kéo." [...] Ư nghĩ về cái tốt, cái xấu ở đời lại lảng vảng trong đầu óc chàng, [...] cũng như Tứ và Nghệ, đều là những người tốt, có ḷng nhân đạo [...] Ngay lúc Nam kể cho chàng nghe về việc giết (Vương) Đức, chàng không khỏi ghê tởm v́ ḷng độc ác của con người; chàng thấy thương hại cho Đức khi bị Nam bóp cổ; đôi mắt mờ ấy biết đâu đă không đau khổ v́ không hiểu và biết đâu Đức không có cha mẹ, vợ con hay một người yêu và trước khi chết đă không nghĩ tới những người thân yêu đó" (Ba Người Bộ Hành, trang 115)

 Ngọc không hiểu hành động của Nam, một người phụ nữ hiền lành, một bà đỡ, một thầy thuốc chữa bệnh cho người nghèo, một người cứu nhân độ thế mà lại có thể giết người không gớm tay, cũng như Ngọc không hiểu được chính ḿnh, chỉ ít lâu sau sẽ nhúng tay vào việc thủ tiêu hai cán bộ Việt Minh, Tứ và Nghệ, một cách tàn ác và lạnh lùng không kém.

o0o

 Ba Người Bộ Hành, viết về hành tŕnh ŕnh rập giữa Ngọc, Tứ và Nghệ. Cả ba đều đă dùng những thủ đoạn "dối trá, gian giảo, độc ác để hạ thủ nhau": "Họ ŕnh nhau như những con thú dữ mà người nào cũng v́ một lư tưởng ḿnh cho là cao đẹp" (Ba Người Bộ Hành, trang 207). Ở đây, Nhất Linh đă viết những trang thản nhiên và rùng rợn nhất về tội ác của con người, nhân danh cách mạng. Ngọc dẫn Tứ và Nghệ đến một chỗ được gọi là "chỗ ấy", tức là nơi Ngọc sẽ thi hành bản án; trên đường đi xuyên núi rừng, phong cảnh hùng vĩ, Ngọc vừa đi vừa hát "Chàng cất tiếng hát cao giọng, đi thật mau cho bước chân ăn nhịp với bài hát mà chàng cố hát thật mau:

 Hồn nước muôn năm sống cùng non nước!
 Ngày nay ta noi tấm gương anh hùng,
 Dù khó thế mấy quyết cùng nhau bước,
 Làm cho vang tiếng cháu con ṇi giống Tiên Long.
 Chàng chuyển sang điệp khúc:
 Mau, mau đồng ḷng, tay cầm tay, trông cờ nước, ta đều bước,
 Tuốt gươm, thề với núi sông ...
 Hồn nước muôn năm sống cùng ...

 Bài hát ấy là của Lưu Hữu Phước, đảng viên Việt Quốc trong thời kỳ bí mật từ trong nước truyền ra." (Ba Người Bộ Hành, trang 214)

 Trong suốt cuộc hành tŕnh, Ngọc sung sướng thưởng thức cảnh đẹp, say sưa với những nhịp bước hùng ca như thế, và sau khi đă bỏ thuốc độc trong cà phê cho Tứ và Nghệ rồi, "chàng nhấc thây của Nghệ và Tứ đem ra đặt sát gần bức vách núi rồi đẩy mạnh một cái. Hai cái xác rơi từ trên cao xuống, lọt vào khe mấy tảng đá. Đứng ở trên c̣n thấy hở ba cái chân, Ngọc bẻ một cành cây rậm lá quăng xuống, chàng phải quăng xuống bốn năm cành mới có một cành trúng và che phủ mấy cái chân hở. [...]
 Ngọc ngẩng lên: trời cao và xanh, lơ lửng một vài đám mây trắng. Các ngọn núi bao bọc chung quanh dưới ánh sáng mùa thu trong có một vẻ đẹp rực rỡ mà vẻ đẹp của trời thu như c̣n xa hơn nữa; nắng đẹp ở vườn sau nhà Thanh, nắng làm rám da mấy quả lựu và làm hồng đôi g̣ má Thanh đương đứng ngắm những cánh hoa lựu trắng, nắng c̣n đẹp ở những nơi xa xa nữa; lúc này Nga đương ra vườn cất quần áo đă khô, ḷng chợt nhớ đến chồng, mong ngày chồng về; nắng đẹp ở trong vườn người chị thân yêu của chàng giờ này có lẽ đương cau mũi và mắng chàng:
 - Thằng Ngọc chết tiệt, đi đâu biệt tích không một lá thư gửi thăm nhà."  (Ba Người Bộ Hành, trang 237-238)  

 Phải có một bản lĩnh cao cường như Nhất Linh mới có thể ḥa trộn tội ác trong một bối cảnh trời cao, mây rộng, yêu nước và yêu người như thế. Trong con người, không thể phân biệt được đường ranh thiện ác như Nhất Linh đă dẫn đầu tiểu thuyết bằng hai câu thơ của Nguyễn Du: Trời kia đă bắt làm người có nhân, đă mang lấy nghiệp vào thân, và lời của Pascal: Vérité en deça des Pyrénées, erreur au delà, bên này dăy núi Pyrénées là sự thực, bên kia là sai lầm.

 Nhất Linh đă thay rặng Pyrénées của Pascal bằêng ḍng sông Thanh Thủy. Ở Nhất Linh, trong con người không có rặng Pyrénées, cũng không có ḍng sông Thanh Thủy, hoặc nếu có th́ cả núi lẫn sông đều ch́m lấp trong cái vực chung thiện ác là trái tim.

 Ngọc và Thanh là tên của loài lan quư, lan Thanh Ngọc mà Nhất Linh đă nâng niu bên ḍng suối Đa Mê. Ḍng Sông Thanh Thủy in 10 bản trên giấy Thanh Ngọc và trong 17 phụ trang do chính Nhất Linh vẽ, lan Thanh Ngọc được minh họa ở trang đầu với hai câu thơ:

 Sắc trong Thanh Ngọc hương thơm mộng
 Một thoáng mơ tiên thoảng xuống trần.

 Bài thơ và bức họa mở đầu cho tiểu thuyết Ḍng Sông Thanh Thủy như để giới thiệu chân dung hai người, vừa trong như Ngọc, vừa Thanh như lan, nhưng cũng lại là những kẻ giết người không gớm tay, khi họ bị guồng máy cách mệnh cuốn về hai phe đối đầu: quốc gia và cộng sản.
 

 Tác phẩm của Nhất Linh, do đó không chỉ viết về một thời tranh chấp giữa Việt Minh và Việt Nam Quốc Dân Đảng những năm 45, mà c̣n bao trùm những tranh chấp Quốc-Cộng, sau khi Nhất Linh mất. Những tranh chấp ấy không phải thời này mới có, mà có tự ngàn xưa: "Thanh nói với Ngọc:
- Cái guồng máy ấy vẫn c̣n, c̣n măi. anh đă xem Đông Chu Liệt Quốc và Tây Hán chứ?
- Có, tôi có đọc nhiều lần.
- Đấy, anh xem cái guồng máy đă có từ mấy ngh́n năm trước. Anh chắc c̣n nhớ Vệ Ưởng nước Tần, Phạm Lăi với Văn Chủng nước Việt, Hàn Tín với Trương Lương đời Tây Hán. Vệ Ưởng, Văn Chủng, Hàn Tín đều bị cái guồng máy nó nghiền nát nhừ cũng như nó sẽ nghiến anh Ninh và cả anh nữa. [...] Anh bị lôi cuốn vào đó và tôi cũng vậy." (Chi Bộ Hai Người, trang 86)

 Thanh, trong truyện, gần gũi với Nhất Linh, tâm hồn nghệ sĩ, yêu cái đẹp, có tư tưởng. Đă bao lần Thanh muốn bỏ tất cả để t́m đến thiên thai với Ngọc. Họ đă sống những giây phút thần tiên, lăng mạn với nhau, đă đi thuyền trong trăng, đă dạo vườn đào Côn Minh như Lưu Nguyễn. Thanh đă muốn bỏ tất cả tục lụy, tranh chấp, chém giết, nhưng guồng máy không tha cho Thanh, không tha cho Thanh-Ngọc. Như Thanh, Nhất Linh cũng đă bỏ tất cả, lên Đà Lạt tu tiên, t́m một cơi đam mê, vượt khỏi bậm bụi cuộc trần, nhưng rồi rút cục Nguyễn Tường Tam cũng không thoát khỏi guồng máy, lại trở về trần, trở về với đấu tranh chính trị, để rồi bị cái guồng máy chính trị ấy nghiền nát. Nhất Linh gánh cái nghiệp của nhà văn và nhà cách mạng: cả hai đều biết rất rơ về nhau nhưng không buông tha nhau và đeo đuổi nhau đến hơi thở cuối cùng. Văn chương và cách mạng đối với Nguyễn Tường Tam Nhất Linh như Ngọc và Thanh, như lan Thanh Ngọc, là một thứ t́nh yêu lạ lùng, t́nh yêu đến chết.

 Khi Ngọc và Thanh biết đích xác nhiệm vụ của nhau, họ cùng đi với nhau đoạn đường cuối tên là Vọng Quốc. Họ cùng vọng quốc như nhau, cùng rời Côn Minh đi về biên giới, vượt cầu sang sông Thanh Thủy, về Hà Giang để phụng sự đất nước.

 Đất nước là của chung, nhưng cách phụng sự đất nước của đảng họ lại khác. Cho nên phải giết nhau. Đoạn đường cuối ấy được Ngọc cảm nhận như sau: "Ngọc cho cuộc đi với Thanh về Hà Giang như một cuộc t́m kiếm thiên thai; thân chàng dù có bị guồng máy nghiến nát nhưng linh hồn chàng theo lời Thanh vẫn thường nói, sẽ tan đi như hạt muối trong nước hay biến thành một niềm vui ḥa loăng trong cái mênh mông của hư vô. Phạm Lăi, Tây Thi chết đă mấy ngh́n năm nhưng tâm hồn hai người vẫn tồn tại trong tâm hồn nhân loại." (Vọng Quốc, trang 92)

 Trong hành tŕnh này, có lúc tâm sự, hai người đă đồng ư với nhau rằng trước khi chết, nếu được nh́n một h́nh ảnh đẹp, nghe một điệu nhạc hay, th́ cái chết chắc sẽ bớt đau hơn. Và rồi họ cũng đạt đến giây phút thần tiên ấy:
 "Thanh để hết cả tâm hồn khe khẽ ngâm, tiếng thoảng nhẹ như hơi gió trong đêm trăng sương mù:

 Đêm sương thoảng tiếng ai trong gió,
 Ḷng hỏi ḷng biết có hay không?
 Hay chăng tiếng vọng mơ ṃng
 Của ḷng ḿnh nói cho ḷng ḿnh nghe...

 Tiếng ngâm rứt đă từ lâu nhưng dư âm c̣n vang măi trong hồn Ngọc. Tự nhiên chàng nghĩ đến hôm đi chơi hồ, Thanh ngâm bài phú Xích Bích và nói bây giờ c̣n đâu Tào Tháo, Chu Du nhưng câu thơ hay của Tô Đông Pha và ánh trăng trong trên ḍng Xích Bích th́ c̣n măi măi. Chàng nghĩ Thanh và chàng có thể lát nữa sẽ chết, Việt Quốc, Việt Minh ám hại lẫn nhau cũng không c̣n nữa. Nhưng tiếng ngâm của người yêu th́ như măi măi bàng bạc trong không gian của những đêm sương lạnh." (Vọng Quốc, trang 208)

Có phải đó là chúc thư văn học của Nhất Linh? Phải chăng Nhất Linh muốn nhắn lại rằng những con người tranh giành nhau v́ quyền lực, v́ lư tưởng, rồi sẽ chết. Nhưng tiếng thơ không chết. Tô Đông Pha không chết. Cho nên nhà chính trị Nguyễn Tường Tam có thể ch́m trong quên lăng nhưng nhà văn Nhất Linh sẽ sống măi với Đôi Bạn, Bướm Trắng, Xóm Cầu Mới, Ḍng Sông Thanh Thủy ... trong ḷng người

   

                               Trích từ

                          http://thuykhue.free.fr/